<<<
[...]
Kể từ sau khi trở về từ Fruhling, Lali coi như không có chuyện gì.
Rời khỏi Fruhling, gia đình họ ngay tối đấy đã đi tàu để xuống Nebel chơi. Họ đã chuẩn bị đồ đạc và lịch trình để nghỉ lại Nebel cả tuần lễ liền, coi như chơi cho chót trước khi tháng Bảy kết thúc. Kể từ lúc Ánh sáng quay về lục địa đến nay đã được dăm năm, nhờ vậy mà người dân Nebel cùng quân đội Hoàng gia đã tiếp tục mở rộng lãnh thổ sang đến bên kia thung lũng. Thay đổi đặc biệt nhất kể từ khi mặt trăng và mặt trời quay lại chính là việc hiện tượng Đêm Trắng ở Nebel đã quay trở lại: Cứ vào hè, mặt trời sẽ không bao giờ biến mất khỏi bầu trời và thậm chí mọc vào nửa đêm. Cứ vào 9 đến 10 giờ đêm, mặt trời sẽ đứng sững lại ở đường chân trời và nhuộm vạn vật trong sắc hoàng hôn đỏ ối. Và sau đó, mặt trời sẽ không lặn mà cứ đứng nguyên ở đó, để rồi lại mọc vào lúc 1 giờ đêm. Vậy nên, người ta có thể làm gần như tất cả mọi thứ vào mọi thời điểm trong ngày hè ở Nebel: Dã ngoại, chèo thuyền, câu cá hay chơi thể thao. Không ai thực sự ngủ vào thời gian này. Dưới ánh sáng kỳ diệu và khung cảnh siêu thực này, khách du lịch đã tìm ra cái thú mới để khám phá Nebel hậu thời đại tăm tối: Người ta đã chế ra những chiếc xe đạp đi được trên mọi địa hình, chắc chắn và khỏe hơn, để người đạp có thể thoải mái thả trên những triền dốc, cảm nhận cơn gió tạt qua mặt mình và cứ vậy tung bay trên những nẻo đường không dấu chân người, tận hưởng cảm giác tự do hệt một con thú đang chạy như bay trên con đường cheo leo vòng quanh thung lũng, lao thẳng vào bầu trời xanh ánh vàng rực của chiều tà. Nếu không phải vì Mira còn bé quá, và vì Galatea đang mang bầu, hẳn Lali cũng muốn chơi trò này. Nom gấu bố cứ ngó theo quầy cho thuê xe đạp với vẻ tò mò luyến tiếc mà ai cũng phải nín cười. Cái cảm giác tung bay trên những nẻo đường tự do, không giới hạn đấy quả thực có thể làm trẻ tâm hồn con người ta cả chục năm.
Đồng thời, thời tiết ở Orion những năm gần đây đang ngày càng trở nên ấm áp hơn.Đã không có mấy tuyết còn đọng lại ở các sườn dốc vào hè năm nay. Chính vì vậy mà hoạt động trượt tuyết và đi xe chó kéo không còn thực hiện được, nhưng bù lại họ đã có thể chèo thuyền trên hồ và đi sâu vào trong rừng chơi không chút khó khăn. Nhiều loại động thực vật cũng bắt đầu sinh trưởng trong rừng, biến Nebel vào hè thàn một vùng thung lũng xanh tươi với những hồ nước lớn. Đặc biệt, nhiều đàn tuần lộc bắt đầu đến trú ở gần bìa rừng, người dân cũng hay cho chúng ăn nên đàn tuần lộc đó đặc biệt dạn người và táo tợn. Bộ gạc trên đầu chúng đặc biệt lớn và nổi bật, đặc biệt là con đầu đàn đến mức một vài người dân ở Nebel còn bắt đầu chòng lên đấy đủ loại hoa, chuông đồng hay vật trang trí, hệt như người ta trang trí một cây thông Noel vậy. Khi Mira muốn thử cho chúng ăn, thỏ con đã giật mình khi nắm địa y trong tay mình - vốn dành cho một bé hươu con - bỗng bị một con hươu lớn hơn nhào ra cướp mất. Không được ăn địa y, con hươu con kia thất thểu chạy ra với mẹ, vừa chạy vừa kêu những tiếng ồn ào hệt đám vịt giời. Bỗng nhiên, Mira thấy con hươu đầu đàn với cái gạc bự nhất xóm đang nhìn mình chăm chú, đánh giá, và rồi ngài ta thong thả tiến tới, cạ cạ đầu vào bàn tay nhỏ bé của thỏ con để đòi thêm địa y.
Khác với mọi năm, năm nay gia đình Nadia không ở lại nhà của gia đình Howard. Kể từ sau khi Bóng tối biến mất, Nebel ngày một phát triển và mở rộng. Dưới sự hướng dẫn của gia đình hoàng gia và khoản tiền đầu tư của các quý tộc, người Nebel đã biết mở rộng các hình thức du lịch để thu hút khách đến. Nhiều nơi nghỉ dưỡng được xây nên, đã không còn khó khăn để tìm được cho mình một chốn nghỉ chân sau ngày dài thăm thú.
Sau khi thuê lại một căn nhà gỗ ấm cúng và đầy đủ tiện nghi nằm ở nơi khá tách biệt so với khu dân cư, cả tuần đó gia đình Nadia đã trải qua những tháng ngày rong chơi trong vòng tay của tự nhiên. Sáng sáng, họ thức dậy khi cảm thấy đã ngủ chán chê trong những chiếc lông vừa mềm vừa ấm, ăn sáng, thay đồ rồi ra ngoài chèo thuyền, câu cá, vào thị trấn mua sắm các sản vật địa phương, thăm thú các viện bảo tàng, khu nhà cổ, rồi tối đến lại quay về nhà cùng quây quần nấu bữa ăn gia đình. Mira rất thích các món bánh và cả sữa chocolate, cô nhóc còn tìm được nơi làm ra trứng và thỏ phục sinh bằng chocolate. Cứ khi câu được một thùng đầy cá hồi sông, bố Lali sẽ làm món cá hồi bỏ lò ăn cùng mỳ. Vì đã là mùa quả mọng, các tiệm bánh ở Nebel cũng đặc biệt chuyên làm ra các loại bánh tart quả mọng chua chua ngòn ngọt theo mùa. Tuy vậy, vì nhà họ có thỏ mẹ đang mang bầu nên bố gấu cẩn thận ko lựa các món thịt thú rừng hay nấm lạ để nấu ăn phòng trừ dị ứng. Ngoài ra, thỏ con nhà họ còn mê mẩn cả mấy món bánh quế cuộn thơm lừng mùi bơ với đường quế, bé con lúc ăn cứ phồng má nom như con sóc nhỏ, hai má phúng phính vì trời hanh se mà cứ đỏ hồng lên đáng yêu vô cùng.
Vì Galatea đang bầu bí nên những hoạt động như đạp xe, cưỡi ngựa hay chèo thuyền cô ko thể tham gia, nhưng bù lại bố Lali luôn cẩn thận ngày ngày mang đủ thứ đồ, nào là khăn trải dày, gối ôm và cả chăn bông dày để cuộn mẹ thỏ lại thành một cục xù dưới bụi cây phía trên triền dốc, ngắm theo bóng lưng hai cha con chạy tít xuống dưới thung lũng. Và khi đã muốn nghỉ ngơi, Lali sẽ lại quay về ngồi cạnh cô, hai người lại rúc vào nhau trong khi Mira thì sẽ lẩn mẫn chơi quanh đấy, tìm hoa dại để ép. Cô bé được gia đình Howard tặng cho một bộ đồ chơi ép hoa bằng gỗ rất đẹp nên cứ đi quanh quanh để sưu tầm thêm vào bộ sưu tập của mình. Hoa cả ở Nebel rất khác so với Đảo Kỵ sĩ. Không chỉ vậy, Mira còn được chơi với đám chó kéo xe, chúng vô cùng thân thiện với con người và có những con còn lớn đến mức có thể để Mira cõng trên lưng.
Thung lũng này không dốc lắm nên con bé có ngã lăn dài trên bãi cỏ cũng không xây xước gì, chỉ tội ông bố còn phải cởi áo khoác rồi xắn tay áo lên để chạy theo trông trẻ. Nhìn hai bố con Lali lúc này vui lắm, ông bố cũng trẻ ra mấy phần. Cảm giác lăn lộn trên bãi cỏ mướt ẩm, bên dưới là đất lành lạnh ủ hơi sương sót lại, phía trên lại là ánh nắng chói chang thực khiến người ta thích bằm lăn ra dưới bóng râm. Hoá ra, khi vào hè, ánh sáng nguyên bản ở Nebel rất chói chang, nhưng cứ khi nắng tắt là thời tiết sẽ lại lạnh. Thời tiết chuyển lạnh ngay khi họ đi gần những hồ nước. Hóa ra, đám trẻ con ở Nebel cũng thân thiện và dễ gần hơn hẳn tụi trẻ quý tộc ở nhà Wengener, thậm chí chúng có còn có đôi phần ngờ nghệch và đơn thuần hơn cả trẻ con ở Lupus. Cha mẹ chúng đều là những người sùng đạo nên họ luôn dạy dỗ con cái rất cẩn thận. Nghe đâu, gần đây Nebel đang tính lập nên một bảo tàng lấy đề tài về Phép màu ở Nebel và cả những Phép màu xuất hiện trong tôn giáo của họ trong thời kỳ Đen tối. Đây kể ra cũng là những nỗ lực trong việc khôi phục đức tin nguyên thủy ở vùng đất này.
Đồng thời, gia đình Nadia cũng được biết rằng bà Theresa đã được phong Thánh. Cả một sáng, bố Lali và họ đã chỉ ngồi yên trong nhà nguyện Sistine, bùi ngùi ngắm nhìn bức tượng của bà. Hay nói cho đúng hơn, đó là một mình Lali trang nghiêm ngồi ở hàng ghế đầu, tay chắp lại, mắt anh nhắm nghiền và trán chạm lên tay để gửi đi những lời cầu nguyện. Khuôn mặt trên pho tượng đồng đấy giống hệt như bức ảnh của bà Theresa mà Mira hay thấy trong nhà, nhưng mái tóc dài được xõa ra, không hiểu sao lại mang thêm nhiều phần từ ái.
“Hôm nay, chúng con mang Amira qua thăm bà. Những năm này, gia đình con vẫn hạnh phúc.”
Không hiểu sao, khi bố Lali nói đến đó, Mira đã thấy ánh sáng ngũ sắc trên gò mà bức tượng đấy bỗng mềm ra, nhu hòa hơn rất nhiều, giống như chính bà Theresa đang mỉm cười vậy.
Đêm đêm, gia đình họ lại cùng ngắm cực quang và cả những vì sao qua chiếc kính thiên văn mà Mira mang theo. Bố Lali chụp rất nhiều ảnh cho cả gia đình. Thời gian này, dường như bố Lali đang không muốn tiếp xúc với người quen. Ngoài mặt, anh vẫn thoải mái khi nói chuyện với những người lạ, những người biết đến gia đình Nadia nhưng chỉ ở mức sơ sơ bên ngoài. Cảm giác như Lali muốn tạm thời không quan tâm hay phải gợi đến mối quan hệ dù là nhỏ nhất đến gia tộc lớn kia. Lúc này, ngày qua ngày, nhà Nadia hệt như một gia đình nhỏ đơn thuần sống bên nhau trên vùng đồi phía Bắc, cùng trải qua những hoạt động nhỏ trong ngày, cùng vào rừng hái berry hay đi câu cá, nhóm lửa đun nước, cùng nhau ăn uống ngon lành và rồi kể nhau những câu chuyện trước khi đi ngủ trong chăn ấm, với nụ hôn trên trán cho nhau.
Đã lâu rồi, bầu không khí thanh bình này mới quay lại.
“Khi sống như thế này. Khi nhìn theo Mira… anh hay nhìn thấy chính bản thân mình khi xưa.”
Vừa thả câu xuống hồ nước, Lali vừa lựa một tư thế thoải mái để ngồi trên ghế. Trên chân anh đặt một tuyển tập truyện cổ ở vùng Nebel mà họ mua được khi ghé tiệm sách cũ trong thị trấn. Ngay bên cạnh là ghế của Galatea, được trang bị thêm không biết bao là nệm lông…
“Thời đấy, dù không có gì nhiều trong tay… Nhưng cuộc sống thật đơn giản. Đến cuối ngày, anh và mẹ vẫn sẽ ở bên nhau trong căn lều nhỏ.”
Những năm gần đây, người ta phát hiện ra rằng một số hồ và sông ở Nebel không ngờ lại có thông với biển ở ngoài kia. Tuy chưa tiến được tận ra biển phía Bắc, nhưng chỉ cần ngồi ở đây là họ đã có thể thấy được vài “bãi biển”: mùi nước thoảng mặn nhưng không đặc biệt nồng, bãi cát với chất cát thô và bằng phẳng. Phía trước đó là một khoảng rừng khác, nom thật giống bãi biển mini giữa núi rừng. Có lẽ nước trong này thông với biển lớn ở ngoài kia. Ánh nắng vào ban trưa khiến những cơn gió thổi từ rừng vào cũng không còn lạnh nữa. Dựa vào nhau như cặp tình nhân rủ rỉ với nhau, hai vợ chồng Nadia cứ vậy tiêu tốn buổi chiều quý giá của họ trong bầu không khí tĩnh lặng thân mật và êm ả, một thứ ngôn ngữ tình tự mà cả hai người đều thông thạo...
“Có đôi lúc, anh muốn quay về những ngày đấy. Khi mọi thứ không phức tạp như bây giờ. Khi anh có thể tốn hàng tá thời gian để bẫy thỏ, câu cá và lượm củi, đi chơi trong rừng và ngắm cảnh dưới đồi. Anh có thể bám theo một con hươu đến khi tìm được đàn của nó. Chạy miết theo cực quang trong đêm…”
Quay sang giúp Galate chỉnh lại khăn quàng cổ, Lali rướn người qua hôn khẽ lên chán cô rồi khẽ cười một mình như mới ăn vụng thành công. Bầu không khí ở Nebel thật quá thanh bình, thanh bình đến mức đủ để giúp hai người lớn bỏ quên đi tất cả đống lộn xộn còn đang tồn tại trong đời mình.
“
Em này. Khi nào xong xuôi, khi bọn nhỏ cứng cáp hơn, chúng ta hãy đi Lupus chơi đi. Anh cá là mọi người ở Thần điện và Kadesh cũng nhớ em lắm.”
Tiếp tục trầm giọng tâm sự, Lali bày tỏ mong muốn đến quê vợ chơi. Sẽ cần chờ một thời gian cho đến khi Yuu và Jaci đều đã lớn hơn một chút. Khi biết tin đây sẽ là con trai, bố Lali hẳn cũng đã phấn khởi khi nghĩ đến những hoạt động mà mình có thể làm cùng tụi con trai. Tuy cưng chiều Mira hết mực, nhưng có những điều mà chỉ riêng mình mẹ và con gái là có thể hiểu với nhau. Mira cũng là một bé gái lành tính và nhỏ nhắn, cô bé không phải là kiểu trẻ con hiếu động thích chơi các trò mạo hiểm ngoài trời. Vì vậy, khi chơi với con gái, bố Lali dành phần lớn thời gian để ngắm hai mẹ con rủ rỉ như hai mẹ con thỏ bông đi với nhau, mỉm cười trước mọi thứ mà con gái khoe với mình và đôi khi bế cô bé trên tay để đưa thỏ con đi chơi vòng vòng.
“Gala, em biết không… Có đôi lúc, anh cảm thấy thực sự mệt mỏi với thế giới ngoài kia. Anh muốn biến mất. Anh muốn đi thật xa. Anh muốn nắm lấy tay em, bế theo Mira. Cả nhà chúng ta đi thật xa, đến một nơi mà không ai biết chúng ta.”
“Nhưng cũng đồng thời, anh không thể. Anh nghĩ đến những người trong cơn tuyệt vọng cần đến mình. Cứ nghĩ đến việc đấy, anh không thể cứ vậy biến mất được.”
Chẳng biết rằng giữa khoảng lam in sắc trời của những vùng nước lợ này, giữa những vùng xanh dài dài, những dòng nước hẹp sau những bán đảo cây mọc thành rừng cùng những ghềnh đá nhỏ nhoi này, họ đã nghĩ đến những điều gì. Người đàn ông khẽ nhắm mắt, trầm tư nghĩ ngợi khi nhẹ nhàng tựa đầu mình vào vai người vợ nhỏ ngồi bên. Tóc anh khẽ cọ lên má cô, còn có mùi gì như mùi quế và cam thảo phơi khô, ngòn ngọt lại mằn mặn như mùi gia vị ướp thịt khô. Tay họ nắm lấy nhau, những ngón tay vẽ lên tay đối phương những vòng tròn nhỏ, lơ đãng như xoáy nước sủi lên sau gió, như đang truyền đi một thông điệp không lời nào đấy. Giọng Lali như truyền sang người cô, từ nơi mà họ tiếp xúc mà truyền lên màng nhĩ; cái âm vực trầm trầm khàn khàn đấy luôn khiến màng nhĩ trong tai người nghe hơi rung lên, không phải kiểu rung làm người ta váng cả đầu, mà là những rung động nhồn nhột, nhàn nhạt khuấy khẽ vào dạ dày.
Sẽ thật tuyệt nếu như con người có thể mãi mãi sống mà vô tri. Liệu đó có phải là lý do mà người Nadia đã lựa chọn từ bỏ tất cả những cảm xúc và ý thức của chính mình? Sự khác biệt của những người Nadia ở đây và trong Nội thành là gì, có chăng nằm ở chính lựa chọn thức tỉnh hay mãi mãi ngủ yên khỏi thế giới này của họ?
“Em yêu… Em thấy cha Vincent như thế nào?”
Nắm lấy bàn tay thanh mảnh của vợ, Lali đưa tay cô áp lên má mình, thân thiết cọ cọ lên đấy. Cằm anh mới cạo sáng nay nên nhẵn nhụi, nham nhám như giấy ráp. Người đàn ông đưa tay cô lên mũi ngửi, tò mò mà cố gắng nghĩ xem từ sáng đến nay vợ mình đã chạm vào đâu, rồi đặt một nụ hôn vào lòng bàn tay mềm mại đấy.
Có lẽ, cha Vincent cũng đã vô cùng cô đơn. Mẹ Kaya cũng vậy. Dù ở đâu, họ cũng là những con cừu đen lạc lõng khỏi bầy. Dù lựa chọn rời đi hay ở lại thì cũng chỉ có tương lai u ám đang chờ đợi họ.
Khi hai trái tim cô đơn tìm thấy nhau, sẽ thật tự nhiên để tình yêu đâm chồi dựa trên nền tảng của những thấu hiểu. Nhưng không phải mọi tình yêu đều có kết thúc đẹp.
...
Có những khi đang chơi với Mira, Lali sẽ bất thần quay lại, ngước đầu lên để nhìn vợ mình đang ngồi dưới một gốc cây xa xa, trên triền đồi, nơi hình bóng nhỏ bé của cô từ góc độ này như bị phủ rạp bởi những đám cỏ ngỗng và cây ké gai. Dù nhìn bao nhiêu lần thì hình ảnh mà anh thấy vẫn như vậy: Bóng hình cô dưới ánh nắng hè gợi nên vẻ mỏng manh trong suốt kỳ lạ, cái vẻ mong manh và yên lặng làm Lali cứ ngỡ như mình đang mơ. Dẫu cho biết bao thời gian đã trôi qua, cái cảm xúc đấy vẫn chưa từng biến mất. Anh có thể nói rõ vợ mình bây giờ khác thế nào so với hồi mới đôi mươi. Nhưng cũng đồng thời, Lali cũng có thể chỉ ra những điểm mãi mãi không bao giờ thay đổi ở Galatea. Đó là những thứ khí chất rất khó để mô tả, một thứ huyền bí mà chỉ mình cô mới có, mà nếu người ta cố gắng mổ xẻ phân tích nó ra thì tình yêu sẽ mất đi cái thú huyền bí của nó.
Và cũng những lúc như vậy, chỉ cần người phụ nữ đấy ngẩng đầu lên, tay cô giữ lấy mái tóc lam dài mượt mà bay trong cơn gió, và đôi mắt đấy kiếm tìm hình bóng của chồng mình để trao anh một nụ cười, trái tim Lali chắc chắn sẽ lại hẫng mất một nhịp. Sẽ luôn chỉ là một nụ cười e thẹn và nhu mỳ, với những cử chỉ dè dặt không khoa trương nhưng lại cũng chân thành vô cùng. Chỉ cần như vậy là đủ. Chỉ cần những điều như vậy để hai người biết rằng họ vẫn đang yêu và được yêu bởi đối phương, nhiều như cách họ yêu người kia vậy.
Cứ mỗi lần như vậy, người đàn ông sẽ lặng lẽ, không vội vàng mà quay lại. Anh sẽ ngồi xuống bên cô, để vai họ chạm vào nhau. Lali sẽ khẽ dụi cằm và chóp mũi của mình lên mái tóc mềm thơm của vợ, lặng lẽ nắm lấy tay cô và để cả hai tựa vào nhau, cùng yên lặng ngắm phong cảnh hoặc tận hưởng cơn gió mát thổi từ biển qua những tán olive. Bàn tay anh sẽ chu du trên bờ eo người phụ nữ, bấm lên những cung đường cong đấy từng nốt chậm và nhột nhạt. Anh tựa đầu vào hõm vai của cô, hôn lên xương quai xanh, rồi lên cổ, lên cằm, và hôn lên đôi môi hồng của người phụ nữ.
Và cũng như vậy, lần này, con gấu đã bồng vợ một mạch ra sau một gốc cây rồi hôn đắm đuối để bù thời gian bị vợ cấm ăn vụng lúc ở nhà. Tấm thảm lông dày làm người ta dù có nằm ngả lưng trên đấy cũng không cảm thấy cộm hay đau. Ánh nắng chói chang của vùng núi phía Bắc viền từng đường sáng chói lên khuôn mặt nam tính của người đàn ông, để lại một vùng tối trên ngũ quan nam tính đấy. Ánh mắt họ giao nhau, hòa vào với nhau thay mọi lời muốn nói. Lali đưa tay lên gỡ miếng bịt mắt tháo xuống để bên cạnh. Anh ôm Galatea vào lòng, mới đầu chỉ là hôn nhè nhẹ lên trán, rà mũi ngửi mùi hương trên tóc cô, hôn lên mi mắt, lên mũi, lên môi. Anh cắn nhẹ môi dưới của vợ, khẽ day khiến nó ửng đỏ lên. Càng hôn, Lali càng cuồng nhiệt và thiếu kiên nhẫn. Khi anh đưa tay lên nới lỏng cổ áo mình, Galatea mới có thể cảm thấy cơ thể chồng mình dường như đang nóng như phát sốt.
Tứ bề yên tĩnh đến mức từng tiếng thở nặng nề của người đàn ông cũng lởn vởn quanh vành tay người vợ như thứ âm thanh sống động duy nhất ở nơi này. Nhưng họ cũng nghe thấy cả tiếng của mặt đất truyền qua thảm trải, thủ thỉ vào trong cơ thể họ. Tiếng rên rỉ của những tảng băng mỏng đang tan. Tiếng vọng của đôi chim mới kết tổ trên hàng cây lá kim phủ tuyết. Tiếng kêu của những con hươu trong mùa tìm bạn tình vọng lại từ xa xăm. Tất cả đều bí mật, thầm lặng, thanh bình, nhưng cũng tràn đầy nhựa sống hoang dại, như thể cũng là hợp lẽ tự nhiên nếu để đôi vợ chồng này âm yếm quấn quýt nhau lâu hơn một chút. Anh ôm vợ nằm xuống, còn mình nằm nghiêng bên cạnh, rướn cả nửa người sang để yêu đương. Mái tóc xanh dài của Galatea xõa ra, tràn ra khỏi thảm trải như một dòng lạch nhỏ giữa muôn xanh, hòa với mùi thơm của cỏ và những mùi quế trên những kẽ tay của bàn tay ai đang trải tóc cho cô. Bàn tay thô ráp đấy nới lỏng cổ áo người phụ nữ, để lộ ra phần da cổ và ngực nõn nà. Anh hôn xuống phần da thịt trần đang se lại vì gió lạnh thổi vào, Lali che chắn nó bằng nhiệt lượng hừng hực của mình. Sự chênh lệnh giữa nóng và lạnh làm da thịt ngươi ta muốn phát sốt phát rét. Càng hôn, những vết tấy nho nhỏ càng xuất hiện nhiều hơn, nổi bật trên làn da trắng muốt của Galatea như những trái mọng đỏ hồng trong tuyết. Bàn tay còn lại của đặt trên eo cô, khẽ ve vuốt cái bụng tròn tròn đang căng dần lên theo từng tháng, như để nhắc nhở hai đức nhóc trong này hãy cho bố mẹ chúng ít thời gian bên nhau.
Phải sau khi tòm tem với nhau mất một lúc, Lali mới nhớ ra bé thỏ con nãy giờ chỉ ở gần đấy để ép hoa. Quả vậy, khi họ đi ra phía trước gốc cây, xa xa nơi bìa rừng, mái đầu xanh đặc trưng của Mira đã hiện ra, nổi bật như một vết sơn dầu trên thảm cỏ mướt. Thay vì gọi tên con, hai vợ chồng cùng nhau đi đến xem bé thỏ nhà mình đang làm gì mà tập trung chăm chú đến vậy.
Trong bàn tay nhỏ bé của Mira, đang nâng một chú chim bị thương.
Một chú chim bị thương mà rơi khỏi tổ. Thỏ con hay nhớ mọi người nói bố mình là một y thuật sư nổi tiếng, nên khi vừa thấy bố Lali, cô bé đã sụt sịt nhờ bố chữa cho chú chim tội nghiệp. Nhưng khi bàn tay nhỏ của thỏ con vừa xòe ra, hai vợ chồng đều chỉ thấy xác của một chú chim nhỏ.
“Là chim Toki.”
Khi đi chơi trong viện nghiên cứu quần thể sinh học của Nebel, họ đã thấy thông tin về loài chim đuôi xanh này. Toki đẻ rất ít trứng và cả đời chỉ kết đúng một đôi. Nếu một trong hai con chết đi, con còn lại sẽ mãi lẻ loi, cứ mải mê hót khúc ca tìm bạn tình đã mãi mãi không thể quay lại.
“Bố xin lỗi, Mira.”
Lali thở dài. Anh lắc đầu với Mira, dùng mu bàn tay không tiếp xúc với xác chim để nựng khẽ lên khuôn mặt bầu bĩnh của bé thỏ.
“Sẽ là trái với lẽ tự nhiên… nếu cha cố đưa về linh hồn của một chú chim đã được mẹ đất gọi đi.”
Phép màu của Lali có thể đảo lộn sống và chết, giúp cho chú chim này sẽ mãi sống tiếp, vượt quá tuổi thọ mà một chú chim Toki có thể sống. Nó sẽ tiếp tục sống kể cả khi bạn tình của nó đã chết. Dù cho có tiếp tục sống, khúc ca của con chim đấy sẽ mãi vang lên mà không được đáp trả. Chim Toki chỉ kết bạn tình một lần trong đời.
Mọi sự trái với tự nhiên sẽ chỉ dẫn đến sự bất hạnh.
“Mira của bố. Mọi linh hồn đều có nơi để trở về. Nếu về đấy, chú chim này có lẽ sẽ đến được thiên đường toàn là chim Toki giống mình thì sao.”
Người đàn ông mỉm cười dịu dàng với đứa bé, vừa rút khăn tay ra để gói xác chú chim tội nghiệp vào. Họ sẽ cùng chôn chú chim đấy. Bởi lẽ, với Mira bé bỏng của họ, cái chết là điều gì đấy xa vời, nhưng chưa đáng sợ. Trẻ con không sợ những thứ mà chúng chưa từng phải trải qua. Cũng vì vậy, anh muốn giúp cho bé con của mình trải qua trải nghiệm lần đầu này thật nhẹ nhàng và thanh thản.
“Bố và con sẽ cùng dựng bia và trồng những bụi hoa thật đẹp cho chú chim này nhé. Như vậy, nó sẽ luôn hạnh phúc với nơi ở của mình.”
Kỳ thực, Lali quả thực có thể hồi sinh ngay cả những sinh vật đã chết. Nhưng anh chọn không làm như vậy. Tôn trọng cả sự sống và sự chết ngay cả khi có quyền năng đảo ngược sự chết, bởi lẽ đó là điều hiển nhiên với người đàn ông ấy.
Họ cũng hiểu, rằng với sức mạnh này, trong tương lai, chắc chắn Lali sẽ bị vô số kẻ săn đuổi. Kể cả khi đã chết đi và sống một kiếp sống khác, sẽ có lúc sức mạnh này bị bại lộ, nhất là khi số phận của những người mang Phép màu như Lali vốn đã luôn bị đưa đẩy để nghe theo tiếng gọi bên trong mình. Nói đúng hơn, bởi Lali vốn đã luôn là một người với trái tim dành cho việc giúp đỡ người khác, sức mạnh đấy mới chọn anh để xuất hiện trong thế giới của con người.
Chiều đó, họ cùng nhau đi chợ phiên. Lali mua được thịt tuần lộc hun khói, bánh mì phô mai đặc trưng leipäjuusto, sữa và pho mát dê, trứng gà, một giỏ toàn các loại berry được người dân Nebel hái về và phân loại, mật ong rừng, nấm thông hái tay, bánh lúa mạch, khoai tây, cà chua và cả cá hồi xông khói. Không khí lạnh khô ở Nebel đặc biệt thích hợp để bảo quản thịt treo ở gác bếp cả năm trời trong khi hun khói bếp được đốt từ các loại rơm rạ và cả gỗ rừng với hương thơm đặc trưng. Khoai tây ở đây có hình dáng thon thon như quả hạnh, rất dễ cạo vỏ và đặc biệt có thể nướng trực tiếp để nghiền thành dạng kem. Khi đi ngang qua một hàng bán trang sức và đồ lưu niệm, gia đình họ bị thu hút và cùng vào xem. Kể từ khi khai phá mở rộng Nebel về phía Bắc, người ta phát hiện ra những bờ biển thông vào đất liền. Tuy có địa lý và hệ sinh thái rất khác biệt với vùng biển dồi dào sức sống và hơi ấm ở vùng phía Nam, nhưng biển ở phía Bắc lại đặc biệt ở chỗ chúng có rất nhiều mỏ đá quý. Đặc biệt, lẫn trong cát, người ta còn có thể đào lên nhiều đá hổ phách thô. Khác với đá hổ phách ở Sagitta hình thành trong rừng, hổ phách ở Nebel lại hình thành ở biển.
Galatea đã từng đọc với chồng mình rằng màu mắt của người Nadia sở dĩ được các nhà nghiên cứu ví với hổ phách chính là do các vân sáng bất đồng và chỉ tồn tại ở từng cá thể riêng biệt, cũng như việc mỗi người Nadia đều sở hữu những màu sắc khác biệt nhưng đều ứng với màu hổ phách: từ vàng sáng như sắc chanh, màu đỏ đậm như trái anh đào, sắc nâu gỗ đỏ cổ kính, màu vàng lóng lánh của rượu, màu trắng ngà như thạch, màu xanh lục sáng của lá non, màu vàng nhạt như bơ và cả sắc đen óng ánh vân vàng rực… Đặc biệt, theo thời gian, màu mắt của họ cũng sẽ dần thay đổi, như sáng lên hay mờ đục đi, các vân sáng trong đôi đồng tử sẽ càng rõ hơn. Đã có từng lời đồn cho rằng một đôi mắt của người Nadia ở cuối vòng đời được coi là hổ phách già, và nếu có được đôi mắt đấy thì gia chủ có thể giữ chúng trong nhà như một loại bùa chú. Tất nhiên, những câu chuyện man rợ đấy cũng chỉ còn là quá khứ xa xôi, nhưng chúng càng khẳng định rằng mắt hổ phách của người Nadia có một giá trị đặc biệt không chỉ giới hạn trong màu mắt của họ.
Sau một hồi tò mò ngó nghiêng, Mira cuối cùng cũng bốc ra một chiếc
vòng hổ phách có màu giống màu mắt bố. Bố Lali cũng lựa
một chiếc có màu mắt giống bé Mira. Lali có màu mắt hổ phách vàng nâu đỏ ánh sậm giống màu rượu Cognac, trong khi Mira lại có màu mắt hổ phách trong trẻo hơn, thoạt nhìn rất giống màu mắt thủy tiên của mẹ Gala nhưng khác ở chỗ những vân sáng luôn lưu chuyển trong đôi mắt trẻ thơ đấy. Khi đấy, không hẹn mà gặp, cả hai cha con cùng quay ra nhìn mẹ Gala. Cùng lúc đấy, Lali bắt gặp một chiếc vòng được đặt ở nơi cao nhất và cũng khuất nhất trong cửa hàng, trang trọng trong hộp kính trưng bày. Một chuỗi vòng hổ phách màu xanh. Gần đây, qua khai thác, người ta mới phát hiện ra một loại hổ phách hiếm có:
hổ phách màu xanh lam. Chúng có vân hệt như hổ phách, với màu lam trong suốt như pha lê nhưng lại đan xen là sắc vàng rực rỡ như màu nắng. Chỉ nhìn qua chiếc vòng đấy, Lali đã quyết định mua về cho vợ.
Đêm đấy, cả nhà họ cùng quây quần nấu ăn với các nguyên liệu tươi ngon vừa mua ở chợ. Mira và mẹ Gala cùng làm món purin tráng miệng. Do không có vanilla, họ quyết định thay thế bằng mật ong để tạo ra mùi vị thơm ngon. Thông thường nếu là gấu bố thì hẳn sẽ thay thế vanilla bằng rượu brandy hay rượu rum, nhưng vì đây là bữa ăn gia đình, huống chi do vấn đề nhạy cảm với cồn của thỏ mẹ gần đây nên Lali cũng chỉ dám mang theo đúng một chai rượu trắng để nấu ăn. Trong khi đấy, gấu bố tập trung thái thịt ba chỉ xông khói rồi xào sơ cùng nấm thông và hành tây trong khi khoai tây đang được nướng sơ trên bếp lửa. Hôm nay họ sẽ làm món bánh khoai tây rán với nhân là nấm và thịt xông khói, ăn kèm sốt cà chua và phô mai. Món súp ăn cùng là súp tầm ma, món tráng miệng là purin mật ong được làm lạnh ăn cùng quả mọng dại. Bí quyết chính là khi trộn vụn bánh mỳ để chiên xù, phải pha thêm thảo mộc và gia vị.
Hôm đó họ ăn uống với nhau vui vẻ vô cùng, để ngày mai sẽ gói ghém đồ đạc quay về Đảo Kỵ sĩ. Quả thực, bí quyết cho hạnh phúc chính là hãy sống cùng bốn mùa như thể chúng sẽ chóng trôi đi, thở vào lồng ngực tràn đầy không khí của ngày mới, uống cạn thức uống của mùa, nếm những trái ngọt chín nẫu, và để bản thân chìm dần vào đất mẹ.
Nửa đêm hôm đấy, Lali cứ cầm tay vợ rồi ngắm chiếc vòng mới mua hôm nay, khuôn mặt gấu bố nở nụ cười vô cùng mãn nguyện. Dưới ánh lửa của lò sưởi, màu sắc của hổ phách xanh ánh lên hệt như màu của trời biển, cũng hệt như màu sắc của Galatea. Cảm giác giống như chúng được làm ra là để dành cho cô vậy.
[...]
Sau chuyến đi đấy, gia đình họ quay về yên bình. Trái với sự chuẩn bị tinh thần của Lali, chẳng có tin tức nào được đưa trên đài báo. Người đàn ông thở phào nhẹ nhõm. Kể từ sau đấy, gia đình họ quay về Đảo Kỵ sĩ, tiếp tục chờ ngày Galatea sinh nở. Trong thời gian đấy, Mira và Ersi thi thoảng lại gặp nhau, thằng nhóc cũng dần học được cách bấm chuông cửa chứ không rình rập ngoài sân nữa. Lúc nhà họ nửa đêm mới đi tàu về đến nhà, gia đình Nadia lại thấy Ersi đang ngủ gật trước cửa nhà mình, bên chân là đống truyện mới mượn hôm trước. Hẳn cu cậu đã hóng Galatea từ chiều để mượn tập mới.
Tuy vậy, chỉ khoảng một tuần sau, một vị khách không ngờ đã thực sự bấm chuông cửa nhà họ. Tay người này khệ nệ bê theo vali, tay còn lại vui vẻ nhiệt tình vẫy vẫy gia chủ thông qua mắt mèo ngoài cửa.
Người đó không ai khác chính là ông Vincent von Wengener. Bố chồng của Galatea. Ông nội của Mira. Không có ai đứng cạnh Vincent hết. Rõ ràng, ông đã đến đây một mình, nhiều khả năng là được Johann tiếp tay để trốn đi nên mới đến đột ngột vậy.
@
Heavenleena
Đánh dấu