oOo VnSharing oOo

Go Back   Diễn đàn > VnSharing - Trung tâm điều hành > VnSharing Wiki > Điện Ảnh >

Đã đóng
Kết quả 1 đến 1 của 1
 
  • Công cụ
  • Hiển thị
    1. [Movie] Madagascar (2005)


      CINEMA WIKI

      MADAGASCAR



      Poster tại rạp
      Đạo diễn
      Eric Darnell
      Tom McGrath
      Sản xuất
      Mireille Soria
      Kịch bản
      Mark Burton
      Billy Frolick
      Eric Darnell
      Tom McGrath
      Diễn viên
      Ben Stiller
      Chris Rock
      David Schwimmer
      Jada Pinkett Smith
      Âm nhạc
      Hans Zimmer
      Chỉnh sửa
      Chare De Chenu
      Mark A. Hester
      H. Lee Peterson
      Công ty sản xuất
      DreamWorks Animation
      Pacific Data Images
      Phân phối
      DreamWorks Pictures
      Ngày ra mắt
      May 25, 2005 (Philippines)
      May 27, 2005 (Mỹ)
      Thời lượng
      86 phút
      Quốc gia
      Mỹ
      Ngôn ngữ
      Anh
      Chi phí
      75 triệu USD
      Doanh thu
      532.7 triệu USD
      Madagascar là một bộ phim hoạt hình hài hước của Mỹ do hãng DreamWorks Animation sản xuất, được ra mắt vào ngày 27 tháng Năm năm 2005. Bộ phim xoay quanh bốn động vật, chúng đang sống vui vẻ hạnh phúc tại sở thú Central Park thì đột nhiên bị chuyển về Châu Phi, sau đó tàu của chúng bị đắm và trôi dạt vào đảo Madagascar. Bộ phim có sự tham gia lồng tiếng của Ben Stiller, Jada Pinkett Smith, Chris Rock và David Schwimmer. Ngoài ra, Sacha Baron Cohen, Cedric the Entertainer và Andy Richter cũng có góp mặt.

      Mặt dù nhận về những ý kiến trái chiều nhưng bộ phim lại rất thành công về mặt doanh thu. Phần tiếp nối, Madagascar: Escape 2 Africa (tạm dịch: Madagascar 2: Tẩu thoát đến Châu Phi) được công chiếu vào ngày 7 tháng 11 năm 2008. Phần thứ ba trong sê ri, Madagascar 3: Europe’s Most Wanted (tạm dịch Madagascar 3: Thần tượng Châu Âu) được ra mắt vào ngày 8 tháng 6 năm 2012. Một ấn phẩm liên quan với bộ phim, mang tên Penguins of Madagascar (tạm dịch: Biệt đội cánh cụt của Madagascar) được phát hành ngày 26 tháng 11 năm 2014. Phần tiếp theo của bộ phim, Madagascar 4, vốn được thông báo sẽ ra mắt vào năm 2018, lại bị xóa bỏ do hãng phim đang tái cơ cấu.


      N
      ỘI DUNG


      Tại sở thú Central Park, chú ngựa vằn Marty đang ăn mừng sinh nhật lần thứ mười, nhưng đồng thời cũng mong muốn được thoát khỏi cuộc sống chật hẹp tại sở thú và nhìn thế giới bao la, chạy trên những vùng đất rộng lớn, như Connecticut chẳng hạn. Bạn thân của Marty – sử tử Alex, cố gắng an ủi người bạn này bằng cách hát bài hát “New York, New York” của Frank Sinatra. Nhưng Marty vẫn chưa thỏa mãn, vì thế cậu liền tìm đến biệt đội chim cánh cụt của sở thú, bao gồm Skipper, Kowalski, Rico và Private (tạm dịch: Binh Nhì). Những chú cánh cụt này cũng giống như Marty – tìm cách thoát khỏi sở thú. Bạn của Marty – gồm có chú sư tử Alex, hươu cao cổ Melman và cô hà mã Gloria – nhận ra sự điên rồ của Marty và cố gắng bám sát cậu. Bộ tứ, cùng với biệt đội cánh cụt, tinh tinh Mason và người bạn im lặng như hến của cậu – Phil, đã đến được nhà ga Grand Central. Alex cố gắng giao tiếp với con người nhưng họ lại cho rằng đó là hành vi của sự hung hãn, cuối cùng cả bọn nhanh chóng mê man bởi những mũi phi tiêu có tẩm thuốc an thần. Dưới áp lực của những nhà bảo vệ động lực, sở thú bắt buộc phải chuyển những động vật này về khu bảo tồn cuộc sống hoang dã Kenyan bằng đường biển. Trong chuyến đi, biệt đội cánh cụt trốn ra được và chiếm con tàu, định lại nó đến Nam Cực. Trò đùa của chúng khiến cho những chiếc thùng chứa Alex, Marty, Melman và Gloria rơi ra khỏi con tàu, cuối cùng trôi dạt vào bờ biển Madagascar.

      Những động vật này mau chúng tụ tập lại với nhau. Ban đầu, chúng còn tưởng bản thân đang ở tại một sở thú tại San Diego, California. Nhưng khi đi sâu vào tìm hiểu, chúng gặp được một bầy vượn cáo, được cai trị bởi Vua Julien XIII và sau đó, cả bọn nhanh chóng biết được vị trí thật sự của mình. Alex đổ hết những khó khăn hiện tại lên đầu Marty và muốn phóng ám hiệu để tìm kiếm sự giúp đỡ, mau chóng trở về với nền văn minh nhân loại. Marty thì ngược lại, cậu cảm thấy cuộc sống hoang dã vô cùng phù hợp với mình, Gloria và Melman cũng mau chóng nhập bọn với Marty, cùng nhau tận hưởng cuộc sống tại hoang đảo. Alex cuối cùng cũng tỉnh táo lại, nhưng bản năng săn mồi lại bắt đầu trỗi dậy, cậu đã rời xa cuộc sống an nhàn tràn đầy bít tết đóng hộp của sở thú quá lâu rồi. Cả nhóm được bầy vượn cáo chấp nhận, nhưng tham mưu của vua Julien – Maurice, cảnh báo họ về bản năng săn mồi của Alex. Vua Julien phớt lờ lo lắng của Maurice và thuyết phục bộ tứ bảo vệ chúng khỏi bầy thú săn mồi fossa (fossa khá thấp và tròn trịa, có bộ vuốt có thể thụt vào và hai hàm răng đáng sợ. Fossa là một loài động vật ăn thịt đặc hữu của đảo Madagascar). Ban đầu Alex đã dọa bọn fossa chết khiếp và được vượn cáo tôn sùng, nhưng cuối cùng đầu hàng trước cái đói, cậu lao vào một cuộc săn lùng điên cuồng và tấn công Marty. Vua Julien nhận ra Alex giờ đã trở thành mốt đe dọa nên lưu đày cậu ra phía khuất của hòn đảo, chỗ bầy fossa sống. Khi nhìn thấy tình trạng của Alex và nhận ra sự khó khăn khi phải sinh tồn giữa quá nhiều thú săn mồi xung quanh hòn đảo, Marty bắt đầu hối hận quyết định rời khỏi sở thú của mình.

      Lũ chim cánh cụt, sau khi đã đến Nam Cực và chê lên chê xuống, cuối cùng đã quay tàu trở lại Madagascar. Marty nhận ra đây là một cơ hội hiếm có để đưa Alex trở về New York, cậu mặc lời ngăn trở của mọi người và đuổi theo Alex. Marty cố gắng thuyết phục một Alex đã quay cuồng, chóng mặt vì đói bụng quay trở lại, cậu còn sử dụng cả bài hát “New York, New York” nhưng Alex vẫn từ chối vì cậu sợ hãi mình sẽ tấn công Marty lần nữa. Biệt đội cánh cụt, Gloria và Melman đi tìm Marty, nhưng lại bị lũ fossa bao vây. Vào thời khác cuối cùng, Alex đã kiềm hãm được bản năng săn mồi của mình và dọa lũ fossa chạy khỏi lãnh địa của vượn cáo vĩnh viễn. Vượn cáo một lần nữa lại sùng bái Alex và cả biệt đội chim cánh cụt vì chúng đã giúp Alex thoát khỏi cơn đói bằng những món sushi thay vì thịt bít tết. Khi bầy vượn cáo đang làm tiệc chào tạm biệt bộ tứ, lũ cánh cụt quyết định giữ kín thông tin con tàu đã hết xăng, và cả bọn vẫn còn đang bị mắc kẹt trên hoang đảo.


      D
      IỄN VIÊN


      • Ben Stiller thủ vai sư tử Alex. Tom McGrath giải thích rằng “Ben Stiller là diễn viên đầu tiên chúng tôi mời đến biểu diễn, và chúng tôi biết rằng chúng tôi muốn Alex, chú sư tử, phải là một nhà biểu diễn lớn với những khía cạnh yếu đuối bên trong.”
      • Chris Rock thủ vai ngựa vằn Marty. Tom McGrath giải thích nhân vật: “Marty là một cậu chàng tin rằng cuộc sống thật sự rộng hơn những bức tường hàng rào trong sở thú. Chúng tôi muốn một nhân vật hoạt bát, nên chúng tôi đã mời Chris Rock.”

      • David Schwimmer thủ vai Melman, một chú hươu cao cổ bị ám ảnh bởi vi khuẩn. Khi ê-kíp đang tìm diễn viên lồng tiếng cho Melman, họ đã nghe thấy tiếng của Schwimmer trong Friends và, theo như lời của McGrath, giọng nói ấy “vô cùng ngăn nắp.”

      • Jada Pinkett Smith thủ vai Gloria, một cô hà mã mạnh mẽ, tự tin nhưng cũng rất ngọt ngào. McGrath bảo rằng anh tìm thấy những đặc điểm này tại giọng nói của Pinkett Smith khi nghe cô ấy nói chuyện.

      • Sacha Baron Cohen thủ vai Vua Julien, một con vượn cáo xỏ khuyên và là thủ lĩnh của bầy vượn cáo. Vua Julien ban đầu chỉ có vài lời thoại ngắn ngủi, cho đến lúc thử giọng, Baron Cohen đã ngẫu hứng sáng tạo ra một đoạn hội thoại dài 8 phút bằng chất giọng Ấn Độ.

      • Cedric the Entertainer thủ vai Maurice, một chú khỉ aye-aye (là một loài vượn cáo có nguồn gốc từ quần đảo Madagascar) và cũng là cố vấn hoàng gia của Vua Julien.

      • Andy Richter thủ vai Mort, một chú Goodman’s mouse lemur đáng yêu (đây là một chủng loài chuột vượn cáo sống tại phía đông Madagascar).

      • Tom McGrath thủ vai Skipper, thủ lĩnh của nhóm chim cánh cụt. McGrath cũng là đồng đạo diễn và đồng biên kịch của phim. Ban đầu anh chỉ lồng tiếng tạm thời. Tuổi thơ với những bộ phim có dàn diễn viên rắn rỏi như John Wayne, Charlton Heston và Robert Stack, ban đầu McGrath muốn mời Stack lồng tiếng cho Skipper. Anh đã tiếp cận Stack để mời tham gia, nhưng vào năm 2013, hai tuần trước khi bộ phim bắt đầu được sản xuất, ông qua đời. Sau đó, CEO của hãng DreamWorks Animaxtion Jeffrey Katzenberg quyết định giữ những đoạn lồng tiếng tạm thời ban đầu. McGrath giải thích: “Họ đã quen nghe đoạn lồng tiếng của tôi. Khi trình chiếu thử, chúng tôi biết chúng tôi đã thành công.” Rất nhiều đặc điểm nhân vật đều dựa trên những tác phẩm của Stack. McGrath đặc biệt nhấn mạnh The Untouchables, một sê ri tội phạm truyền hình vào năm 1959 có sự tham gia của Stack.

      • Chris Miller thủ vai Kowalski, một chú cánh cụt và là cánh tay phải của Skipper.

      • Jeffrey Katzenberg thủ vai Rico, một chú cánh cụt thông minh và im lặng, chỉ có thể thể hiện suy nghĩ thông qua những tiếng gầm gừ và kêu ré lên. Mireille Soria, nhà sản xuất bộ phim, ghi nhận vai trò thầm lặng của Katzenberg: “Trớ trêu nằm ở chỗ Katzenberg lại là người không hề có thoại trong phim. Có một chút Dadaistic (một phong trào phản đối chiến tranh ở châu Âu vào những năm 1916 – 1920, bằng cách từ chối các tiêu chuẩn nghệ thuật hiện hành bằng những tác phẩm văn hóa phản nghệ thuật) ở đây, đúng không nào?”

      • Christopher Knights thủ vai Binh Nhì (Private), một chú cánh cụt xông xáo nhưng tự ti. Knights cũng là trợ lí biên tập của bộ phim.

      • Conrad Vernon thủ vai Mason (Phil không có thoại).

      • Fred Tatasciore và Tom McGrath thủ vai bầy fossa.

      • Elisa Gabrielli thủ vai Nana.

      • Bob Saget thủ vai động vật trong sở thú (không nói rõ chủng loại).

      • David Cowgill thủ vai ngựa của cảnh sát.

      • Stephen Apostolina thủ vai cảnh sát.



      P
      HÁT HÀNH



      Madagascar được ra mắt dưới định dạng DVD và VHS vào ngày 15 tháng 11 năm 2005. DVD bao gồm một đoạn phim hoạt hình ngắn The Madagascar Penguins in a Christmas Caper (tạm dịch: Điệp vụ Giáng sinh) và một music video “I Like to Love It”, gồm hình ảnh những nhân vật nhảy theo bài hát.




      Đ
      ÓN NHẬN



      Phê bình

      Trên trang Rotten Tomatoes, bộ phim nhận được 55% phiếu bầu chấp nhận trong số 178 nhận xét. Trên trang Metacritic, bộ phim nhận được 57% phiếu bầu chấp nhận trong số 36 nhận xét trong hạng mục “Trung bình hoặc Lẫn lộn”.

      Doanh thu


      Mặc dù nhận được những phản hồi trái chiều từ giới phê bình, bộ phim vô cùng thành công về mặt thương mại. Trong tuần lễ ra mắt đầu tiên, bộ phim trình chiếu tại 4131 rạp chiếu phim và thu về 47,224,594 USD, trung bình 11,431 USD, đưa tác phẩm lên hàng thứ 3 trong số những bộ phim ăn khách của tuần, chỉ sau Star Wars: Episode III – Revenge of the Sith (tạm dịch: Chiến tranh giữa các vì sao: Tập III – Sự báo thù của người Sith) và The Longest Yard (tạm dịch: Đội bóng nhà tù). Tuy nhiên, bộ phim nhanh chóng leo lên đứng đầu bảng xếp hạng tại Mỹ trong tuần tiếp theo với tổng doanh thu 28,110,235 USD. Tại Hoa Kỳ, bộ phim cuối cùng mang về doanh thu 193,595,521 USD và những vùng ngoài Hoa Kỹ, 339,085,150 USD, tổng doanh thu toàn cầu 532,680,671 USD. Vào tháng 12 năm 2013, bộ phim được xếp vị trí thứ 9 trong số những phim hoạt hình ăn khách nhất của DreamWorks, chỉ sau Shrek 2 (tạm dịch: Gã chằn tinh tốt bụng 2), Shrek the Third (tạm dịch: Gã chằn tinh tốt bụng 3), Shrek (tạm dịch: Gã chằn tinh tốt bụng), Shrek Forever After (tạm dịch: Gã chằn tinh tốt bụng: Cuộc phiêu lưu cuối cùng), How to Train Your Dragon (tạm dịch: Bí kíp luyện rồng), Madagascar 3: Europe’s Most Wanted (tạm dịch: Madagascar 3: Thần tượng châu Âu), Kung Fu Panda (tạm dịch: Công phu Gấu trúc) và Monsters vs. Aliens (tạm dịch: Quái vật ác chiến người ngoài hành tinh).

      Giải thưởng và đề cử


      Bộ phim đã thắng ba giải thưởng và nhận được một số đề cử

      Giải thưởng Lĩnh vực Người nhận Kết quả
      AFI's 10 Top 10 Hoạt hình - Đề cử
      Annie Award Hoạt hình hay nhất - Đề cử
      Annie Award Hiệu ứng hoạt hình Matt Baer Đề cử
      Annie Award Hiệu ứng hoạt hình Rick Glumac Đề cử
      Annie Award Hiệu ứng hoạt hình Martin Usiak Đề cử
      Annie Award Thiết kế nhân vật trong phim hoạt hình Craig Kellman Đề cử
      Annie Award Âm nhạc trong phim hoạt hình Hans Zimmer Đề cử
      Annie Award Thiết kế sản xuất trong phim hoạt hình Yoriko Ito Đề cử
      Annie Award Cốt truyện trong phim hoạt hình Tom McGrath Đề cử
      Annie Award Cốt truyện trong phim hoạt hình Catherine Yuh Rader Đề cử
      Kids' Choice Awards Phim hoạt hình được yêu thích nhất - Chiến thắng

      Âm nhạc


      STT Tựa đề Nhạc sĩ Ca sĩ Độ dài
      1 "Best Friends" Hans Zimmer, Heitor Pereira, Ryeland Allison & James S. Levine
      - 2:24
      2 "I Like to Move It" Erick Morillo & Mark H. Quashie
      Erick Morillo (nhạc cụ), Sacha Baron Cohen (thanh giọng) 3:51
      3 Morton Stevens
      The Ventures 1:49
      4 "Boogie Wonderland" Allee Willis & Jonathan G. Lind
      Earth, Wind & Fire 4:49
      5 "Whacked Out Conspiracy"
      James Dooley - 2:16
      6 "Chariots of Fire" Evangelos Papathanassiou

      Vangelis 3:29
      7 "Stayin' Alive" Barry Gibb, Maurice Gibb & Robin Gibb
      the Bee Gees 4:44
      8 "Zoosters Breakout" Hans Zimmer
      - 1:39
      9 "Born Free" John Barry
      - 1:24
      10 "The Fossa Attack" Heitor Pereira
      - 0:37
      11 "Beacon of Liberty" Hans Zimmer & James S. Levine
      - 2:09
      12 "What a Wonderful World" Bob Thiele & George David Weiss
      Louis Armstrong 2:16


      N
      HỮNG ẤN PHẨM LIÊN QUAN


      Phần tiếp theo mang tên Madagascar: Escape 2 Africa (tạm dịch: Madagascar: Tẩu thoát đến châu Phi) được ra mắt ngày 7 tháng 11 năm 2008, cốt truyện tiếp nối ngay từ phần 1, với dàn diễn viên lồng tiếng tương tự. Một phần tiếp theo, Madagascar 3: Europe’s Most Wated (tạm dịch: Madagascar 3: Thần tượng châu Âu), được ra mắt ngày 8 tháng 6 năm 2012. Một bộ phim ngắn mang tên The Madagascar Penguins in a Christmas Caper (tạm dịch: Điệp vụ Giáng sinh) được phát hành cùng với DVD Madagascar và được trình chiếu tại rạp cùng với Wallace & Gromit: The Curse of the Were-Rabbit (tạm dịch: Wallace & Gromit: Lời nguyền của thỏ rừng) tại Mỹ. Một sê ri liên quan được phát hành tại Mỹ – The Penguins of Madagascar (tạm dịch: Biệt đội cánh cụt) vào tháng ba năm 2009 trên kênh Nickelodeon. Đây là Nicktoon đầu tiên được sản xuất bởi cả Nickelodeon và DreamWorks. Merry Madagascar (tạm dịch: Giáng sinh ở Madagascar), một ấn phẩm vào ngày lễ với sự xuất hiện của những nhân vật đặc biệt từ sê ri phim, được trình chiếu từ ngày 17 tháng 11 năm 2009 trên NBC. Madly Madagascar (tạm dịch: Valentine điên rồ), một tác phẩm vào ngày Valetine với sự xuất hiện của những nhân vật từ sê ri phim, được ra mắt trên DVD ngày 29 tháng một năm 2013. Một phần liên quan với sự góp mặt của những chú chim cánh cụt được ra mắt vào ngày 26 tháng mười một năm 2014 và phần tiếp theo thứ ba, Madagascar 4, ban đầu được dự định trình chiếu vào ngày 18 tháng năm năm 2018, nhưng cuối cùng lại bị hủy lịch chiếu vì hãng phim đang tái cơ cấu.


      Nguồn: Wikipedia | Dịch: Snow | BBcode: PhiếnTử | Website: Vn-Sharing.Net
      Cảm ơn eclipsediary đã giúp sửa lỗi BBCode
      Vui lòng ghi rõ link nguồn khi copy bài viết.
      Nếu phát hiện lỗi sai, thiếu sót trong bài dịch, xin vào topic hồi báo, góp ý.






      Sửa lần cuối bởi Snow; 08-09-2015 lúc 16:25.
      Some people feel the rain
      Others just get wet
      That's why I choose to be

      DISENCHANTED

    Đánh dấu

    Quyền viết bài

    • Bạn không thể đăng chủ đề mới
    • Bạn không thể gửi trả lời
    • Bạn không thể gửi đính kèm
    • Bạn không thể sửa bài
    •  

    Theo giờ GMT +7. Bây giờ là 03:04.

    Powered by vBulletin.
    Copyright© 2024 vBulletin Solutions, Inc. All rights reserved.
    Board of Management accepts no responsibility legal of any resources which is shared by members.