oOo VnSharing oOo

Go Back   Diễn đàn > VnSharing - Trung tâm điều hành > VnSharing Wiki > Lĩnh vực khác >

Đã đóng
Kết quả 1 đến 1 của 1
 
  • Công cụ
  • Hiển thị
  • Xem kiểu ghép

    Previous Post Previous Post   Next Post Next Post
    1. [Footballer] Philipp Lahm





      Lahm trong màu áo đội tuyển Đức tham dự World Cup 2014

      Thông tin cá nhân
      Họ tên
      Philipp Lahm


      Ngày sinh
      Ngày 11 tháng 11 năm 1983


      Nơi sinh
      Munich, Đức


      Chiều cao
      1.70 m (5 ft 7 in)


      Vị trí
      Hậu vệ cánh / Tiền vệ phòng ngự


      Thông tin câu lạc bộ
      CLB hiện tại
      Bayern Munich


      Số áo
      21


      Câu lạc bộ trẻ
      1989-1995
      FT Gern München


      1995-2001
      Bayern Munich


      Câu lạc bộ chuyên nghiệp
      Năm
      Đội bóng
      Trận
      Bàn
      2001-2003
      Bayern Munich II
      63
      3
      2002-nay
      Bayern Munich
      271
      10
      2003-2005
      → VfB Stuttgart (cho mượn)
      53
      2
      Đội tuyển quốc gia
      1999
      U17 Đức
      1
      0
      2000
      U18 Đức
      1
      0
      2001-2002
      U19 Đức
      9
      1
      2002-2003
      U20 Đức
      6
      0
      2003
      U21 Đức
      3
      0
      2004-2014
      Đội tuyển quốc gia Đức
      113
      5
      Danh hiệu
      Bayern Munich
      Hạng nhất
      Bundesliga
      2003
      Hạng nhất
      DFB-Pokal
      2003
      Hạng nhất
      Bundesliga
      2006
      Hạng nhất
      DFB-Pokal
      2006
      Hạng nhất
      DFL-Ligapokal
      2007
      Hạng nhất
      Bundesliga
      2008
      Hạng nhất
      DFB-Pokal
      2008
      Hạng nhất
      Bundesliga
      2010
      Hạng nhất
      DFB-Pokal
      2010
      Hạng nhất
      DFL-Supercup
      2010
      Hạng nhất
      DFL-Supercup
      2012
      Hạng nhất
      Bundesliga
      2013
      Hạng nhất
      UEFA Champions League
      2013
      Hạng nhất
      DFB-Pokal
      2013
      Hạng nhất
      UEFA Super Cup
      2013
      Hạng nhất
      FIFA Club World Cup
      2013
      Hạng nhất
      Bundesliga
      2014
      Hạng nhất
      DFB-Pokal
      2014
      Hạng nhì
      DFL-Ligapokal
      2006
      Hạng nhì
      UEFA Champions League
      2010
      Hạng nhì
      UEFA Champions League
      2012
      Hạng nhì
      DFB-Pokal
      2012
      Hạng nhì
      DFL-Supercup
      2013
      Đội tuyển quốc gia Đức
      Hạng nhất
      FIFA World Cup
      2014
      Hạng nhì
      UEFA Under-19 Championship
      2002
      Hạng nhì
      European Championship
      2008
      Hạng ba
      FIFA World Cup
      2006
      Hạng ba
      FIFA World Cup
      2010
      * Số trận và bàn thắng của giải quốc nội được tính đến 17:54, ngày 8 tháng 11 năm 2014 (UTC).
      ** Số trận và bàn thắng của đội tuyển quốc gia được tính đến 23:11, ngày 13 tháng 7 năm 2014 (UTC).

      Tổng quan

       
      Philipp Lahm (sinh ngày 11 tháng 11 năm 1983) là cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Đức chơi ở hai vị trí là hậu vệ cánh và tiền vệ phòng ngự cho đội bóng Bayern Munich và trước kia là cho đội tuyển quốc gia Đức. Anh là đội trưởng của câu lạc bộ, đã từng dẫn dắt đội qua rất nhiều danh hiệu cao quý như UEFA Champion League 2013 và cú ăn ba trong cùng năm đó. Anh cũng từng là đội trưởng của đội tuyển quốc gia Đức, và trước khi nghỉ thi đấu ở đấu trường quốc tế, anh đã đưa đội bóng ấy đến với chức vô địch World Cup 2014.

       
      Lahm được xem là một trong những hậu vệ cánh giỏi nhất trong thế hệ của anh. Anh được góp mặt trong đội hình tiêu biểu của World Cup năm 2006 và 2010, đội hình tiêu biểu của giải đấu từ UEFA năm 2008 và năm 2012, đội bóng của năm từ UEFA trong năm 2006, 2008, 2012, 2013 và 2014. Mặc dù Lahm thuận chân phải nhưng anh có khả năng chơi ở cả hai cánh. Anh thường cắt từ biên vào giữa sân để sút hay chuyền banh. Anh nổi tiếng ở tốc độ với những cú rê bóng nhanh, những lần cướp bóng chính xác, và với dáng vóc nhỏ bé, anh đã được đặt cho biệt danh là “Chú lùn kỳ diệu”.



      Sự nghiệp câu lạc bộ

      Câu lạc bộ trẻ

       
      Lahm được đào tạo trở thành cầu thủ chuyên nghiệp từ câu lạc bộ trẻ của Bayern Munich. Anh gia nhập đội bóng năm 11 tuổi sau khi vị huấn luyện viên Jan Pienta quan sát anh chơi cho đội bóng trẻ địa phương ở Gern, Munich. Vào thời điểm đó anh đã được cho là rất có năng khiếu, một trong những huấn luyện viên của anh, Hermann Hummels, thậm chí còn nói rằng: “Nếu Philipp Lahm không thành công trong việc đi đến giải Bundesliga thì sẽ không còn ai thành công nữa.” Anh đã hai lần giành được danh hiệu Bundesliga cho các đội bóng trẻ, lần thứ hai là với cương vị một người đội trưởng, và sau đó anh được giới thiệu vào đội B lúc 17 tuổi. Huấn luyện viên đội nghiệp dư của anh, Hermann Gerland, nói rằng Lahm là cầu thủ xuất sắc nhất mà ông từng có cơ hội dẫn dắt, ông còn để anh làm đội trưởng của đội B trong mùa giải thứ hai của anh. Thời điểm đó Lahm đã chơi ở các vị trí tiền vệ phòng ngự, tiền vệ cánh phải hay hậu vệ cánh phải.

       
      Ngày 13 tháng 11 năm 2002, anh đá cho đội một của Bayern Munich lần đầu tiên vào lần thay người phút 92 trong một thế trận đã hòa 3-3 với RC Lens vòng loại Champion League. Tuy nhiên, Willy Sagnol và Bixente Lizarazu lúc đó là lựa chọn hậu vệ số một của Bayern, các vị trí tiền vệ trong đội cũng đã đầy đủ nên Lahm không xuất hiện trong bất cứ trận nào nữa trong mùa giải 2002-2003. Mùa giải 2003-2004 và mùa giải 2004-2005 anh đến với câu lạc bộ VfB Stuttgart theo dạng cho mượn để có những kinh nghiệm thi đấu ở Bungdeslia đầu tiên.

      VfB Stuttgart (dạng cho mượn)

       
      Lahm vốn được ký hợp đồng để dự bị cho Andreas Hinkel, cầu thủ chơi ở vị trí cánh phải, nhưng huấn luyện viên Felix Magath chuyển anh đến chơi ở vị trí cánh trái, thay thế vị trí của tuyển thủ người Đức Heiko Gerber. Anh ra mắt trận Bundesliga đầu tiên mùa giải 2003-2004 trong ngày thi đấu thứ nhất, trận gặp Hansa Rostock, khi vào thay cho tiền vệ Silvio Meissner ở phút 76, anh đá ở vị trí cánh trái. Anh bắt đầu đá chuyên ở vị trí cánh trái trong ngày thi đấu thứ tư khi vào thay cho Gerber ở phút thứ 63. Tiếp theo đó anh đá một trận suốt 90 phút vào ngảy thi đấu thứ sáu với đối thủ là Borussia Dortmund. Từ đó anh là cầu thủ đá cánh trái thường xuyên cho Stuttgart. Ngày 29 tháng 09 năm 2003, Lahm tham dự trận Champion League gặp Manchester United từ đầu trận. Ngày 03 tháng 04 năm 2004, anh ghi bàn đầu tiên tại Bundesliga cho chiến thắng 5-1 trong trận lượt đi của Stuttgart gặp VfL Wolfsburg. Trong suốt mùa giải 2003-2004, Lahm thi đấu cho Stuttgart vòng 31 ở Bundesliga và 7 trận ở Champion League và được hạng nhì trong cuộc bình chọn Cầu thủ người Đức của năm.

       
      Trong mùa giải thứ hai ở Stuttgart, Lahm lại gặp nhiều khó khăn hơn. Vòng loại Euro 2004 diễn ra nên kỳ nghỉ của các cầu thủ ngắn hơn và đợt luyện tập trước mùa giải khiến anh không có nhiều thời gian rời khỏi sân tập nghỉ ngơi, cộng với việc phải thích ứng với chiến thuật và lối chơi của vị huấn luyện viên mới, Matthias Sammer. Tuy nhiên anh vẫn ra sân trong 16 trận Bundesliga cho Stuttgart trước kỳ nghỉ đông, 14 trong 16 trận đó anh nằm trong đội hình ra sân ngay từ đầu và thêm 6 lần ra sân nữa tại UEFA Cup. Vào tháng 01 năm 2005, Lahm bị gãy xương chân phải nên phải ngồi ngoài 4 tháng, anh trở lại vào ngày 09 tháng 04 năm 2005 trong trận gặp FC Schalke 04. Nhưng chỉ 5 tuần sau, anh lại gặp chấn thương, lần này anh bị rách dây chằng, đánh dấu sự kết thúc mùa giải cũng như sự nghiệp của anh tại Stuttgart.

      Bayern Munich

       
      Vào tháng 07 năm 2005, Lahm trở về Bayern Munich. Nhưng do chấn thương dây chằng trước khi trở về khiến anh phải bắt đầu sự nghiệp bóng đá chuyên nghiệp tại FC Bayern trong giai đoạn điều trị. Anh trở lại sân bóng vào cuối tháng 11, đá hai trận cho đội B rồi xuất hiện tại giải chuyên nghiệp Bundesliga cho Bayern vào tháng 11 năm 2005 trong trận gặp Arminia Bielefeld. Trong mùa giải 2006-2007 anh thi đấu cho Bayern trong 20 trận Bundesliga và 03 trận Champions League, có thời gian ra sân ngang bằng với Bixente Lizarazu.

      Lahm trong năm 2006

       
      Trong mùa giải 2006-2007, Lahm ra sân tất cả các trận của Bayern trong vòng 34 Bundesliga và chín trên tổng số mười trận Champions League, chỉ vào thay người hai lần bởi anh như là hậu vệ cánh trái duy nhất của cả đội nhưng đồng thời cũng bởi phong độ ổn định của anh xuyên suốt cả mùa giải vốn được coi là tệ nhất của Bayern trong nhiều năm qua. Vào ngày 20 tháng 08 năm 2006, trong trận lượt đi đầu tiên của Bayern trong mùa giải, anh đã ghi bàn đầu tiên cho đội bóng, góp phần vào chiến thắng 2-1 trước VfL Bochum.

       
      Trong mùa giải 2007-2008, Bayern mua hậu vệ cánh trái người Đức Marcell Jansen và Lahm đáng ra sẽ được chuyển về đá cánh phải, nhằm hỗ trợ cho Jansen đồng thời cũng để thay thế cho hậu vệ cánh phải người Pháp Willy Sagnol. Nhưng bởi chấn thương (của anh và của Jansen), anh vẫn đá cánh trái cho Bayern cho đến hết mùa giải, dù cho anh đã vài lần đề xuất muốn được chơi phía cánh phải trong năm 2008. Xuyên suốt mùa giải có những tin đồn Lahm sẽ rời Bayern vào mùa hè 2008 để chuyển đến FC Barcelona và cuộc thương lượng ấy gần như đã trở thành sự thật. Tuy nhiên vào ngày 16 tháng 05 năm 2008, FC Bayern ký hợp đồng mới với Lahm. Hợp đồng này sẽ giữ anh ở lại Munich đến ngày 20 tháng 06 năm 2012.

       
      Mùa giải 2008-2009 là mùa giải Lahm ghi được nhiều bàn thắng nhất, với ba bàn vào lưới ở Bundesliga và một bàn ở DFB-Pokal. Tuy nhiên, đây lại là một mùa giải tệ hại đối với Bayern, dẫn đến việc huấn luyện viên trưởng Jürgen Klinsmann bị sa thải khi chưa cầm quyền được đến một năm.

       
      Vào ngày 08 tháng 11 năm 2009, Lahm phải đóng một mức tiền phạt cao nhất trong lịch sử Bayern Munich tính đến nay (ước tính khoảng hơn €25,000) sau khi anh tham gia một cuộc phóng vấn trái phép ở Süddeutsche Zeitung. Anh chỉ trích các chính sách chuyển nhượng và sự thiếu triết lý cùng chiến thuật trong lối chơi của câu lạc bộ. Hồi tháng 05 năm 2008, Lahm đã từ chối lời mời hấp dẫn từ Manchester United và F.C. Barcelona khi chủ tịch Uli Hoeness hứa sẽ xây dựng một đội bóng vững mạnh tại Châu Âu. Sự kiện này gây ra nhiều ý kiến trái chiều từ các cổ động viên và phương tiện truyền thông, cả trong nước và quốc tế khi vài người cho rằng Lahm đáng ra nên giữ các ý kiến đó cho riêng mình, trong khi những người khác lại khen ngợi sự thành thật của anh. Mặc dù bị phạt và chỉ trích nặng nề từ các cấp bậc trong câu lạc bộ, anh vẫn giữ được vị trí của mình trong đội hình ra sân của Bayern và bước vào một mùa giải tốt đẹp.

       
      Xuyên suốt mùa giải 2009-2010, dưới thời huấn luyện viên mới Louis van Gaal, Lahm được đá ở vị trí hậu vệ cánh phải sở trường. Sau vài khó khăn trong các trận đầu tiên, anh đã có một trong những mùa giải tốt đẹp nhất anh từng chơi. Hình thành sự hợp tác ăn ý với Arjen Robben ở cánh phải, anh ghi được một bàn và kiến tạo 22 lần trong tất cả các trận. Lahm cũng được Van Gaal chọn làm đội phó và được ra sân thi đấu từ đầu trong tất cả các trận của Bayern, chỉ trừ vòng một của DFB-Pokal. Bayern tiếp tục tiến tới chiến thắng giải đấu và giành cú đúp rồi tham dự vòng chung kết UEFA Champions League 2010, trong trận đấu ấy Lahm ra sân đủ 90 phút ở vị trí hậu vệ cánh phải.

       
      Sau sự ra đi của đội trưởng Mark van Bommel vào tháng 01 năm 2011, Lahm được bổ nhiệm vào vị trí đội trưởng cho đến hết mùa giải 2010-2011 và sau đó anh chính thức trở thành đội trưởng của câu lạc bộ.

      Lahm thi đấu cho Bayern Munich trong vòng chung kết UEFA Champions League 2012

       
      Vào ngày 19 tháng 05 năm 2012, Lahm dẫn dắt Bayern tiến vào trận chung kết UEFA Champions League 2012 đối đầu với Chelsea tại sân Allianz Arena. Anh ghi bàn đầu tiên trong lượt sút luân lưu cho đội nhưng Bayern lại tiếp tục về nhì lần thứ hai trong suốt ba mùa giải.

       
      Đến mùa giải 2012-2013, Lahm dẫn dắt đội bóng đến cú ăn ba huyền thoại với ba chiếc cúp Bundesliga, DFB-Pokal và Champions League. Trận chung kết của Champions League diễn ra vào ngày 25 tháng 05 năm 2013, Lahm giúp đội bóng của mình chiến thắng với tỷ số 2-1 trước một đội bóng nước Đức khác là Borussia Dortmund trên sân Wembley Stadium tại London. Sau trận đấu ấy, anh nói trong niềm vui khi vừa giành được danh hiệu trên: “Thật tuyệt vời – một niềm vui lớn và cũng thật nhẹ nhõm. Áp lực của chúng tôi trong trận đấu này rất lớn sau khi đã thua trong trận chung kết Champions League hai lần trước.”

       
      Đầu mùa giải 2013-2014, dưới thời của huấn luyện viên mới Pep Guardiola, Lahm được tối đa hóa sở trường của mình ở vị trí tiền vệ phòng ngự từ vị trí ban đầu là ‘hậu vệ lẫn tiền vệ cánh phải’ vốn không tồn tại được quá một tháng. Guardiola nói về Lahm rằng: “Cậu ấy có thể là cầu thủ thông minh nhất mà tôi từng dẫn dắt trong cả sự nghiệp của mình. Cậu ấy ở một đẳng cấp khác.” Mùa giải đó cũng đánh dấu một dấu ấn mới cho cả Lahm và câu lạc bộ khi anh dẫn dắt Bayern đến với danh hiệu Bundesliga thứ 24, đồng thời cũng xác lập một kỷ lục mới khi giành được danh hiệu ấy sớm nhất trong lịch sử Bundesliga với bảy trận còn lại, xóa bỏ kỷ lục của chính Bayern trong mùa giải trước.

       
      Vào tháng 06 năm 2014, Lahm ký hợp đồng mới với Bayern đến năm 2018.




      Sự nghiệp quốc tế

      Đội trẻ và Euro 2004

       
      Lahm bắt đầu sự nghiệp thi đấu quốc tế với đội tuyển U19 quốc gia. Anh là một phần của đội bóng đã giành hạng hai ở U19 European Championship 2002 và được ra sân trong mọi trận đấu ở vòng cuối cùng, ghi được bàn thắng quyết định ở phút 90 (2-3) và kết thúc trận đấu với tỷ số 3-3. Sau đó anh chơi một vài trận cho U20 và U21 đội tuyển Đức trước khi được Rudi Völler để mắt đến và được trao cho cơ hội vào đội tuyển chính thức vào ngày 18 tháng 02 năm 2014 ở tuổi 20. Trận đầu tiên của anh là một chiến thắng 2-1 trước đội tuyển Croatia, anh được ra sân đủ 90 phút và đã được tạp chí bóng đá Kicker của Đức chọn là cầu thủ của trận. Anh cũng là một phần của đội tuyển Đức trong UEFA Euro 2004 ở Bồ Đào Nha và được ra sân đủ 90 phút trong cả ba trận. Mặc dù đội tuyển Đức không vào được đến vòng bảng nhưng sự thể hiện của Lahm được đánh giá là đầy hứa hẹn, nhiều tờ báo ở Đức xem đây là điểm sáng duy nhất cho màn trình diễn tệ hại của đội tuyển tại giải đấu năm ấy.

      World Cup 2006


      Lahm khởi động để ra sân cho tuyển Đức năm 2006

       
      Lahm bỏ lỡ hơn một năm sự nghiệp trong đội tuyển quốc gia, từ tháng 01 năm 2005 đến tháng 03 năm 2006, bởi chấn thương (nứt xương bàn chân và rách dây chằng), bao gồm cả Confed CupCúp Liên đoàn các châu lục 2005, nhưng ngay khi hồi phục anh đã trở về với đội hình ra sân. Dù anh gặp phải chấn thương khủy tay trong một trận giao hữu ngay trước thềm FIFA World Cup 2006 và phải mang nạng trên tay trái, huấn luyện viên Jürgen Klinsmann vẫn chọn anh là lựa chọn số một cho vị trí hậu vệ cánh trái. Anh ghi bàn đầu tiên trong trận mở màn World Cup khi Đức gặp Costa Rica vào phút thứ sáu với một pha cắt bóng vào vùng cấm và tung cú sút chân phải vào góc phải phía trên khung gỗ. Anh nhận được giải thưởng Cầu thủ của trận cho màn trình diễn của mình trong trận đấu thứ hai của vòng bảng gặp Ba Lan. Anh cũng là cầu thủ người Đức duy nhất ra sân thi đấu đủ 690 phút trong kỳ World Cup và được đề cử vào Đội hình ngôi sao của giải đấu.

      Euro 2008

       
      Trong kỳ UEFA Euro 2008 anh nằm trong đội hình ra sân của đội tuyển Đức trong tất cả các trận và chỉ phải rời sân thay người duy nhất trong trận chung kết sau khi bị khâu một vết trên bàn chân. Lahm bắt đầu giải đấu ở vị trí hậu vệ cánh phải nhưng sau đó lại phải chuyển qua hậu vệ cánh trái trong trận đấu thứ hai để thay cho Jansen bởi Jansen thi đấu không được tốt. Vào ngày 25 tháng 06 năm 2008, anh ghi bàn thắng quyết định trong trận bán kết Euro 2008 gặp Thổ Nhĩ Kỳ vào phút thứ 90. Anh nói đây chính là bàn thắng quan trọng nhất trong sự nghiệp thi đấu của anh, và mặc dù được đề cử là Cầu thủ của trận, anh không cho là mình thật sự xứng đáng với nó. Vào ngày 29 tháng 06 năm 2008 – trong trận chung kết Euro 2008 gặp Tây Ban Nha – phút thứ 33 Xavi đi một đường chuyền quyết đoán qua hàng phòng ngự của đội tuyển Đức, và do thiếu sự hiểu nhau giữa Lahm và thủ môn người Đức Jens Lehmann đã tạo cơ hội cho Fernando Torres ghi bàn quyết định cho trận đấu; Tây Ban Nha chiến thắng với tỷ số 1-0 và giành được danh hiệu vô địch Euro thứ hai sau 44 năm.

      World Cup 2010

       
      Lahm là cầu thủ duy nhất được thi đấu đầy đủ thời gian trong vòng loại World Cup 2010 của Đức.

       
      Sau khi đội trưởng Michael Ballack gặp chấn thương và phải rời khỏi giải đấu, Lahm được chọn làm đội trưởng của đội trong các trận sắp tới của FIFA World Cup 2010. Vào ngày 13 tháng 06 năm 2010, anh đưa đội tuyển quốc gia tiến vào trận mở màn FIFA World Cup 2010 gặp Úc và trở thành đội trưởng trẻ nhất của Đức tại World Cup. Đội tuyển của anh tiếp tục thi đấu tốt và tiến thẳng vào trận bán kết, nhưng lại để thua Tây Ban Nha với tỷ số 1-0. Lahm không ra sân trong trận tranh hạng ba gặp Uruguary bởi anh bị nhiễm trùng, Bastian Schweinsteiger thay thế anh ở vị trí đội trưởng và đưa đội bóng đến chiến thắng với tỷ số 3-2.

       
      Chức vụ đội trưởng của Lahm trở thành chính thức khi huấn luyện viên Joachim Löw thông báo rằng Ballack sẽ không tham gia vào đội tuyển quốc gia Đức nữa.

      Euro 2012


      Philipp Lahm đối đầu với Nani tại Euro 2012.

       
      Màn phòng ngự chắc chắn của đội trưởng Lahm giúp đội tuyển Đức thắng cả mười trận trong vòng loại UEFA Euro 2012, anh còn kiến tạo cho hai cầu thủ Mesut Özil và Mario Gómez ghi bàn. Anh là một phần chắc chắn trong hàng phòng thủ của đội tuyển Đức và nhận được nhiều lời khen ngợi từ nhiều phía. Đức toàn thắng cả ba trận vòng bảng khi gặp Bồ Đào Nha, Hà Lan và Đan Mạch. Lahm ghi bàn thắng mở màn cho chiến thắng 4-2 của họ trước Hy Lạp trong trận tứ kết. Nhưng tuyển Đức đã thất bại trước Ý ở vòng bán kết với tỷ số 2-1.

      World Cup 2014

       
      Vào ngày 06 tháng 09 năm 2013, Lahm được trao cho chiếc mũ ghi nhận lần ra sân thứ 100 của anh cho đội tuyển Đức với chiến thắng 3-0 trước Áo trong vòng loại của World Cup 2014.

       
      Vào ngày 16 tháng 06 năm 2014, Lahm bắt đầu ra sân cho tuyển Đức ở vị trí tiền vệ trung tâm trong trận mở màn của họ ở FIFA World Cup 2014, một chiến thắng 4-0 trước đội tuyển Bồ Đào Nha ở Salvador. Anh tiếp tục chơi ở vị trí đó thêm hai trận vòng bảng nữa và cả vòng 16 với đội tuyển Algeria.

       
      Lahm quay trở lại vị trí hậu vệ cánh phải trong trận tứ kết gặp Pháp, và tiếp tục chơi ở vị trí đó trong chiến thắng 7-1 của Đức trước Brasil ở vòng bán kết. Vào ngày 11 tháng 07 năm 2014, Lahm nằm trong danh sách rút gọn mười người của FIFA cho danh hiệu Quả bóng vàng các cầu thủ xuất sắc nhất của giải đấu.

       
      Vào ngày 13 tháng 07 năm 2014, Lahm dẫn dắt đội tuyển Đức đến với chiến thắng World Cup với tỷ số 1-0 trước đội tuyển Argentina trong trận chung kết, giành được danh hiệu World Cup thứ tư cho tuyển Đức và là danh hiệu đầu tiên của nước Đức tái thống nhất. Fritz Walter, Franz Beckenbauer, và Lothar Matthäus là người đã dẫn dắt Tây Đức đến với 3 danh hiệu World Cup trước đó.

       
      Vào ngày 18 tháng 07 năm 2014, Lahm chính thức giã từ sự nghiệp thi đấu quốc tế ở tuổi 30. Anh đã ghi 5 bàn thắng trong 113 lần ra sân. Vào ngày 02 tháng 09 năm 2014, Bastian Schweinsteiger thay thế Lahm trở thành đội trưởng của tuyển quốc gia Đức.




      Đời sống cá nhân

       
      Lahm sinh ra tại Munich, Bavaria. Anh kết hôn với Claudia Schattenberg và có một người con trai Julian. Andreas Ottl là cầu thủ duy nhất được mời đến tham dự lễ cưới. Lahm và Ottl là bạn chơi bi-da và tennis cùng nhau. Khi còn trẻ, Lahm thường là người pha trò trong trường. Anh được xem là một học sinh thông minh và có nguồn cảm hứng muốn trở thành một thợ làm bánh. Lahm từng là cậu bé nhặt banh ở Olympic Stadium cho các trận đấu của Bayern Munich.

       
      Lahm tham gia rất nhiều các chiến dịch và sự kiện từ thiện. Vào tháng 06 năm 2007, FIFA thông báo rằng Lahm và Owen Hargreaves sẽ đến Nam Phi nhằm hỗ trợ cho FIFA World Cup 2010. Và dù rằng Hargreaves không tham dự được sự kiện ấy do dính chấn thương, Lahm và người đồng đội trong đội tuyển Đức là Piotr Trochowski không những đến thăm các tổ chức của FIFA World Cup 2010 mà còn đến Làng trẻ em SOS và tham dự sự kiện chống bệnh AIDS.

       
      Lahm đã thành lập một tổ chức tên là Philipp Lahm-Stiftung nhằm hỗ trợ các trẻ em gặp hoàn cảnh khó khăn. Anh là đại sứ đại diện cho “FIFA vì làng trẻ em SOS”. Thêm vào đó anh còn là đại sứ cho Ngày thế giới phòng chống AIDS năm 2007, 2008 và 2009. Anh cũng tham gia vào chiến dịch chống lại hành động vi phạm tốc độ trong lái xe và vô số các chiến dịch khác như Bündnis für Kinder, một chiến dịch chống lại bạo hành trẻ em.

       
      Lahm được trao giải thưởng Tolerantia-Preis vào ngày 20 tháng 09 năm 2008 nhờ những đóng góp to lớn của anh cho việc phản đối sự bất công và phân biệt đối xử với người đồng tính luyến ái trong thể thao, đặc biệt là trong bóng đá. Anh cũng nói thêm rằng “quả là một điều đáng buồn khi mà việc đồng tính vẫn còn là chủ đề cấm kỵ trong bóng đá”, và anh không có vấn đề gì nếu đồng đội mình có là người đồng tính đi chăng nữa, anh nói rằng mình “không sợ những người đồng tính luyến ái”. Tuy nhiên, Lahm không khuyến khích các cầu thủ công khai thừa nhận mình là người đồng tính, bởi như thế họ sẽ phải chịu đựng rất nhiều sự ngược đãi.



      Tự truyện

       
      Vào tháng 08 năm 2011, ở tuổi 27 anh đã phát hành cuốn tự truyện của mình có nhan đề là Der feine Unterschied: Wie man heute Spitzenfußballer wird (Sự khác biệt tinh tế - Cách để trở thành một cầu thủ bóng đá hàng đầu), quyển sách nói về sự nghiệp bóng đá của anh và một vài kinh nghiệm cá nhân, môi trường bóng đá nói chung, bóng đá trong các ngữ cảnh xã hội và sự hiệu quả trong việc huấn luyện của các huấn luyện viên với các phương pháp luyện tập khác nhau. Quyển sách nhận được nhiều sự quan tâm từ truyền thông Đức, một vài phần bị chỉ trích do trong đó anh phân tích chi tiết công việc của các huấn luyện viên tiền nhiệm, một trong những người chỉ trích đó là Rudi Völler (chính bản thân ông là người Lahm nhắc đến trong quyển sách) và Ottmar Hitzfeld.



      Thống kê

      Tại câu lạc bộ

      Tính đến ngày 08 tháng 11 năm 2014

      Sự nghiệp câu lạc bộ
      Giải quốc gia
      Cúp quốc gia
      Cúp liên đoàn
      Giải lục địa
      Khác
      Tổng cộng
      Câu lạc bộ
      Giải
      Mùa giải
      Số trận
      Số bàn
      Số trận
      Số bàn
      Số trận
      Số bàn
      Số trận
      Số bàn
      Số trận
      Số bàn
      Số trận
      Số bàn
      Đức
      Giải quốc gia
      DFB-Pokal
      DFL-Ligapokal
      Châu Âu
      KhácThống kê bao gồm giải DFL-Supercup
      Tổng cộng
      Bayern Munich II
      Regionalliga Süd
      2001–02
      27
      2




      27
      2
      2002–03
      34
      1
      1
      0
      35
      1
      Tổng cộng
      61
      3
      1
      0



      62
      3
      Bayern Munich
      Bundesliga
      2002–03
      0
      0
      1
      0
      0
      0
      1
      0

      2
      0
      Tổng cộng
      0
      0
      1
      0
      0
      0
      1
      0

      2
      0
      VfB Stuttgart
      Bundesliga
      2003–04
      31
      1
      !
      0
      1
      0
      7
      0

      40
      1
      2004–05
      22
      1
      2
      0
      1
      0
      6
      1

      31
      2
      Tổng cộng
      53
      2
      3
      0
      2
      0
      13
      1

      71
      3
      Bayern Munich II
      Regionalliga Süd
      2005–06
      2
      0




      2
      0
      Tổng cộng
      2
      0




      2
      0
      Bayern Munich
      Bundesliga
      2005–06
      20
      0
      4
      0
      0
      0
      3
      0

      27
      0
      2006–07
      34
      1
      3
      0
      2
      0
      9
      0
      48
      1
      2007–08
      22
      0
      5
      0
      3
      0
      10
      1
      40
      1
      2008–09
      28
      3
      3
      1

      7
      0
      38
      4
      2009–10
      34
      0
      6
      1
      12
      0
      52
      1
      2010–11
      34
      3
      5
      0
      8
      0
      1
      0
      48
      3
      2011–12
      31
      0
      5
      0
      14
      0

      50
      0
      2012–13
      29
      0
      5
      0
      12
      0
      1
      0
      47
      0
      2013–14
      28
      1
      4
      0
      12
      0
      2
      0
      50
      1
      2014–15
      11
      2
      2
      0
      4
      0
      1
      0
      18
      2
      Tổng cộng
      271
      10
      42
      2
      5
      0
      91
      1
      5
      0
      414
      13
      Thống kê sự nghiệp câu lạc bộ
      387
      15
      47
      2
      7
      0
      105
      2
      5
      0
      551
      19


      Tại đội tuyển quốc gia

      Bảng thống kê số bàn thắng và kết quả trận đấu. Số bàn thắng của đội tuyển Đức được ghi trước.

      Philipp Lahm: Bàn thắng trong sự nghiệp quốc tế
      #
      Ngày
      Sân vận động
      Đối thủ
      Bàn thắng
      Kết quả
      Giải
      1
      28/04/2004
      Stadionul Giulesti, Bucharest, Ru-ma-ni
      Ru-ma-ni
      1–5
      1–5
      Giải giao hữu
      2
      09/06/2006
      WM-Stadion München, Munich, Đức
      Costa Rica
      1–0
      4–2
      2006 FIFA World Cup
      3
      25/06/2008
      St. Jakob Park, Basel, Thụy Sĩ
      Thổ Nhĩ Kỳ
      3–2
      3–2
      UEFA Euro 2008
      4
      03/06/2010
      Commerzbank-Arena, Frankfurt, Đức
      Bosnia-Herzegovina
      1–1
      3–1
      Giải giao hữu
      5
      22/06/2012
      PGE Arena Gdańsk, Gdańsk, Ba Lan
      Hy Lạp
      1–0
      4–2
      UEFA Euro 2012




      Danh hiệu

       
      Trong năm 2008, Lahm được chọn làm hậu vệ cánh trái trong Đội bóng của năm từ FIFA, vượt qua hậu vệ cánh trái Patrice Evra của Manchester United 2% phiếu bầu.

      Câu lạc bộ: Bayern Munich

      – Bundesliga: 2002–03, 2005–06, 2007–08, 2009–10, 2012–13, 2013–14
      – DFB-Pokal: 2002–03, 2005–06, 2007–08, 2009–10, 2012–13, 2013–14
      – DFL-Ligapokal: 2007
      – DFL-Supercup: 2010, 2012
      – UEFA Champions League: 2012–13; Hạng nhì: 2009–10, 2011–12
      – UEFA Super Cup: 2013
      – FIFA Club World Cup: 2013

      Tuyển quốc gia

      – FIFA World Cup: 2014; Hạng ba: 2006, 2010
      – UEFA European Under-19 Football Championship Hạng nhì: 2002
      – UEFA European Football Championship Hạng nhì: 2008

      Cá nhân

      – Silbernes Lorbeerblatt: 2006, 2010, 2014
      – Đội hình ngôi sao từ FIFA World Cup: 2006
      – Đội hình trong mơ từ FIFA World Cup: 2010
      – Đội hình ngôi sao từ FIFA World Cup Castrol Index: 2014
      – Đội bóng của năm từ UEFA: 2006, 2008, 2012, 2013, 2014
      – Đội bóng của giải châu Âu từ UEFA: 2008, 2012
      – Đội bóng của năm từ ESM: 2013, 2014
      – Quả bóng bạc từ FIFA Club World Cup: 2013
      – Đội hình xuất sắc nhất trong năm từ FIFA/FIFPro: 2013, 2014
      – Đội bóng của mùa giải từ UEFA Champions League: 2013–14
      – Quả bóng vàng từ FIFA: hạng 6 năm 2014



      Nguồn: Wikipedia.Org | Dịch và BBCode: Banban Yukata | Website: Vn-Sharing.Net
      Bài dịch dựa theo nguồn đến ngày 18 tháng 02 năm 2015
      Vui lòng ghi rõ link nguồn khi copy bài viết.
      Nếu phát hiện lỗi sai, thiếu sót trong bài dịch, xin vào topic hồi báo, góp ý.
      Sửa lần cuối bởi Banban Yukata; 15-03-2015 lúc 22:07.

    Tag của Chủ đề này

    Đánh dấu

    Quyền viết bài

    • Bạn không thể đăng chủ đề mới
    • Bạn không thể gửi trả lời
    • Bạn không thể gửi đính kèm
    • Bạn không thể sửa bài
    •  

    Theo giờ GMT +7. Bây giờ là 01:28.

    Powered by vBulletin.
    Copyright© 2024 vBulletin Solutions, Inc. All rights reserved.
    Board of Management accepts no responsibility legal of any resources which is shared by members.