oOo VnSharing oOo

Go Back   Diễn đàn > VnSharing - Trung tâm điều hành > VnSharing Wiki > Manga - Anime >

Đã đóng
Kết quả 1 đến 1 của 1
 
  • Công cụ
  • Hiển thị
    1. #1

      [M-A] From Up on Poppy Hill

      From Up on Poppy Hill
      Đạo diễn
      Miyazaki Gorō
      Sản xuất
      Suzuki Toshio
      Biên kịch
      Miyazaki Hayao
      Niwa Keiko
      Nguyên tác
      Manga Kokuriko-zaka kara của Takahashi Chizuru & Sayama Tetsurō
      Diễn viên
      Nagasawa Masami
      Okada Junichi
      Takeshita Keiko
      Ishida Yuriko
      Fubuki Yuriko
      Naito Takashi
      Kazama Shunsuke
      Omori Nao
      Kagawa Teruyuki
      Âm nhạc
      Satoshi Takebe
      Quay phim
      Okui Atsushi
      Biên tập
      Seyama Takeshi
      Studio
      Studio Ghibli
      Phân phối
      Toho
      Ngày công chiếu
      16/07/2011 (Nhật)
      Thời lượng
      92 phút
      Xuất xứ
      Nhật Bản
      Ngôn ngữ
      Tiếng Nhật
      Kinh phí
      2,17 tỉ yên
      (22 triệu USD)
      Doanh thu phòng vé
      61,46 tỉ yên (toàn cầu)
      4,46 tỉ yên (riêng Nhật Bản)






      Áp phích phim tại Nhật, do Miyazaki Hayao thiết kế và minh họa
      Kokuriko-zaka Kara (コクリコ坂から, コクリコざかから, From Up on Poppy Hill, tạm dịch “Từ đồi hoa mỹ nhân”) là bộ phim hoạt hình Nhật Bản của đạo diễn Miyazaki Gorō. Kịch bản do Miyazaki Hayao và Niwa Keiko phụ trách. Anime được Studio Ghibli sản xuất dựa trên series manga cùng tên năm 1980 của Sayama Tetsurō và họa sĩ Takahashi Chizuru. Các diễn viên tham gia lồng tiếng gồm có: Nagasawa Masami, Okada Junichi, Takeshita Keiko, Ishida Yuriko, Fubuki Jun, Naito Takashi, Kazama Shunsuke, Omori Nao và Kagawa Teruyki.

      Đặt bối cảnh tại làng Yokohama, Nhật Bản vào năm 1963, cốt truyện xoay quanh Matsuzaki Umi, một nữ sinh cấp ba sống tại nhà trọ Corquekicot Monor (Trang Viên Hoa Mỹ Nhân). Cô gặp gỡ và kết thân với Kazama Shun, một thành viên thuộc câu lạc bộ báo chí. Trước việc hiệu trưởng Tokumaru muốn phá hủy tòa nhà câu lạc bộ Phố-La-Tin, Umi, Shun và chủ tịch hội học sinh Mizunuma Shirō phải thuyết phục ông ta thay đổi ý định.

      From Up on Poppy Hill được công chiếu tại Nhật vào ngày 16/7/2011. Phim chủ yếu nhận được đánh giá tích cực và thu về 61 triệu USD trên toàn cầu. Ngoài ra, phiên bản tiếng Anh đã được GKIDS phân phối tới các rạp ở Bắc Mỹ vào ngày 15/3/2013.







      Cốt Truyện


      Matsuzaki Umi là một nữ sinh 16 tuổi theo học tại trường cấp 3 Isogo. Cô sống tại Coquelicot Manor, một nhà trọ nhìn ra cảng Yokohama, Nhật Bản. Ryōko - mẹ cô là một giáo sư y khoa hiện đang làm việc tại Mỹ. Umi điều hành nhà trọ và chăm sóc hai em ruột Sora và Riku cùng với bà mình là Hana. Các khách trọ gồm có cô sinh viên Hirokouji Shachiko và bác sĩ thực tập Hokuto Miki. Mỗi buổi sáng Umi đều treo những lá cờ hàng hải với thông điệp “Chúc thuyền ra khơi thuận buồm xuôi gió”.

      Một ngày nọ, một bài thơ nói về cô gái ngày ngày vẫn treo cờ được đăng trên trờ báo của trường. Kazama Shun, tác giả bài thơ kiêm thành viên của câu lạc bộ báo chí, thường thấy những lá cờ của Umi mỗi khi cậu đáp tàu kéo tới trường. Hai người lần đầu gặp nhau tại Isogo khi Shun tham gia một màn trình diễn giật gân cho tờ báo, khiến Umi có ấn tượng không tốt về cậu. Tuy nhiên, trước sự nài nỉ của Sora, Umi đành hộ tống em gái tới xin chữ ký của Shun tại Phố Latin, tòa nhà câu lạc bộ cũ kĩ và xập xệ của trường. Tại đây, Umi được biết Shun là người phụ trách xuất bản tờ báo cùng Mizunuma Shirō - chủ tịch Hội học sinh, và rốt cuộc cũng góp sức giúp họ một tay. Sau khi được truyền cảm hứng từ lời kêu gọi của Shun trong một buổi thảo luận về tương lai Phố Latin, Umi đã đề nghị các học sinh nữ tới giúp các thành viên trong tòa nhà dọn dẹp và cải tạo lại nơi này.

      Quay trở lại Coquelicot Manor, Umi đã mời Shun và Shirō tới dự tiệc chia tay Miko cùng mọi người. Cô dẫn Shun vào phòng làm việc trước kia của cha mình và cho cậu xem ảnh chụp ba người lính hải quân trẻ tuổi. Một trong số đó là Sawamura Yūichirō – người cha quá cố đã tử nạn trong Chiến tranh Triều Tiên của cô. Shun đã vô cùng sửng sốt khi thấy nó. Tối hôm ấy, cậu về nhà mở cuốn tập và nhìn đăm đăm vào một tấm ảnh y hệt của Umi. Cậu hỏi cha mình, người tiết lộ Yūichirō đã tới nhà họ vào một đêm nọ. Vì vợ chồng Kazama vừa mất đi đứa con thơ nên họ đã quyết định nhận nuôi Shun từ Yūichirō. Sau đó, nhận thấy Shun luôn cố tình lẩn tránh mình, Umi quyết định chất vấn cậu, người tiết lộ có lẽ họ là anh em ruột. Shun đã kiểm ra sổ đăng kí của thành phố và phát hiện cả hai đều mang họ Sawamura. Umi quyết định chôn chặt tình cảm của mình dành cho Shun và cả hai tiếp tục làm bạn.

      Sau khi hoàn tất việc cải tổ Phố Latin, các học sinh hay tin Ủy Ban Giáo Dục tỉnh Kanagawa vẫn giữ nguyên ý định tháo dỡ tòa nhà. Mọi người liền cử Umi, Shun và Shirō tới Tokyo gặp ngài Tokumaru, một thương nhân kiêm chủ tịch hội đồng nhà trường. Cả ba băng qua thành phố lúc này đang chuẩn bị cho Olympic Mùa hạ năm 1964 và thành công thuyết phục ông ta tới thăm tòa nhà. Khi Shirō tách ra tới thăm người họ hàng, Umi thổ lộ tình cảm của mình với Shun. Cậu đáp lại tình cảm đó mặc cho tình cảnh trái ngang của họ lúc bấy giờ.

      Sau khi về nha, Umi phát hiện mẹ mình đã trở về. Ryōko tiết lộ cha đẻ của Shun là Tachibana Hiroshi – người đàn ông thứ hai trong tấm ảnh. Vào năm 1945, Tachibana tử nạn trong một vụ đắm tàu hồi hương. Mẹ của Shun đã qua đời sau khi sinh cậu, còn họ hàng thân thích đều bỏ mạng trong lần Mỹ ném bom nguyên tử xuống Nagasaki. Ryōko lúc đó đang có thai Umi, lại đang tiếp tục học y nên không thể chăm sóc cho Shun. Yūichirō đăng kí cho Shun là con trai mình để tránh cậu trở thành trẻ mồ côi trong những năm hậu chiến đầy biến động sau đó. Ông cuối cùng đành gửi gắm cậu cho vợ chồng Kazama. Nghe thấy vậy, Umi sà vào lòng mẹ khóc nức nở, nhưng trong thâm tâm vẫn còn ít nhiều vướng mắc.

      Tokumaru rốt cuộc cũng ghé thăm Phố Latin và vô cùng ấn tượng trước nỗ lực của các bạn học sinh. Ông quyết định ngừng vô thời hạn việc tháo dỡ tòa nhà. Sau đó, Umi và Shun được gọi tới bến cảng. Họ gặp thuyền trưởng Onodera Yoshio – người đàn ông thứ ba trong ảnh, đồng thời là người duy nhất còn sống sót. Ông xác nhận Umi và Shun hoàn toàn không có quan hệ huyết thống với nhau, rồi kể tường tận cho cả hai nghe về câu chuyện của ba người lính hải quân hồi trẻ. Với mọi việc đã được giải quyết êm xuôi, Umi quay trở lại Coquelicot Manor và tiếp tục treo cờ mỗi ngày, nhưng không có cờ trả lời.
      |Trở về Mục Lục|


      Nhân Vật - Diễn Viên Lồng Tiếng


      Nhân vật
      Lồng tiếng
      Giới thiệu
      Matsuzaki Umi (松崎 海)
      Sarah Bolger (Anh)
      Nagasawa Masami (lớn)
      Watanabe Aoi (nhỏ)
      Con cả của nhà Matsuzaki. Gia đình Umi điều hành một nhà trọ kiến trúc phương Tây nhìn ra biển. Biệt danh của cô bé là “Meru”. “Meru” và “Umi” lần lượt có nghĩa là “đại dương” trong tiếng Pháp và tiếng Nhật.
      Kazama Shun (風間 俊)
      Anton Yelchin (Anh)
      Okada Junichi (Nhật)
      Chủ tịch câu lạc bộ báo chí, người Umi thầm thương.
      Sawamura Yūichirō (澤村 雄一郎)
      Okada Junichi (Nhật)
      Cha của Umi
      Matsuzaki Hana (松崎 花)
      Gillian Anderson (Anh)
      Takeshita Keiko (Nhật)
      Bà ngoại của Umi kiêm chủ nhà trọ
      Matsuzaki Ryōko (松崎 良子)
      Jamie Lee Curtis (Anh)
      Fubuki Jun (Nhật)
      Mẹ của Umi kiêm nhà nghiên cứu tại một trường đại học bên Mỹ
      Hokuto Miki (北斗 美樹)
      Christina Hendricks (Anh)
      Ishida Yukiko (Nhật)
      Một bác sĩ thực tập từng sống tại Coquelicot Manor
      Kazama Akio (風間 明雄)
      Chris Noth (Anh)
      Omori Nao (Nhật)
      Cha nuôi của Shun
      Onodera Yoshio (小野寺 善雄)
      Bruce Dern (Anh)
      Naito Takashi (Nhật)
      Một thuyền trưởng kiêm bạn cũ của cha mẹ Umi với Shun
      Mizunuma Shirō (水沼 史郎)
      Charlie Saxton (Anh)
      Kazama Shunsuke (Nhật)
      Chủ tịch hội học sinh kiêm bạn thân của Shun
      Tachibana Hiroshi (立花 洋)
      Kazama Shunsuke (Nhật)
      Người cha quá cố của Shun
      Tokumaru Rijichō (徳丸理事長)
      Beau Bridges (Anh)
      Kagawa Teruyuki (Nhật)
      Chủ tịch trường Isago kiêm thương gia sống tại Tokyo. Nguyên mẫu của ông là chủ tịch Tokuma Yasuyoshi của Tokuma Shoten.
      Matsuzaki Sora
      Isabelle Fuhrman (Anh)
      Shiraishi Haruka (Nhật)
      Em gái của Umi
      Matsuzaki Riku
      AlexWolff và Raymond Ochoa (Anh)
      Kobayashi Tsubasa (Nhật)
      Em trai út của Umi
      Hirokōji Sachiko
      Aubrey Plaza (Anh)
      Hiiragi Rumi (Nhật)
      Một sinh viên trường Mỹ thuật sống tại Coquelicot Manor
      Makimura Saori
      Elisa Gabrielli (Anh)
      Kanazawa Eiko (Nhật)
      Khách trọ tại Coquelicot Manor
      Nobuko
      Emily Osment (Anh)
      Kanno Toshimi (Nhật)
      Bạn cùng lớp của Umi
      Yuko
      Bridget Hoffman (Anh)
      Teshima Aoi (Nhật)
      Bạn cùng lớp của Umi
      Thầy giáo dạy Lịch sử Thế giới ở Isago
      Ronan Farrow (Anh)
      Mayazaki Gorō (Nhật)

      Gen
      Jeff Dunham (Anh)

      Chủ tịch Câu lạc bộ Triết Học
      Ron Howard (Anh)


      |Trở về Mục Lục|


      Bối Cảnh Lịch Sử




      Ngọn lửa Olympic năm 1964. Thế vận hội Olympic ở Tokyo là biểu tượng cho một Nhật Bản mới
      Trong phim, cha của Umi qua đời khi tàu tiếp tế của ông bị bom nhấn chìm trong cuộc Chiến tranh Triều Tiên, còn ba của Shun qua đời trên một con tàu hồi hương sau khi Thế Chiến Thứ II kết thúc.

      Theo sau thất bại của Nhật trong Thế Chiến Thứ II, Tư lệnh Tối Cao của Các lực lượng Đồng Minh (SCAP) cho phép các nhà buôn hàng hải trở về quê hương. Trong giai đoạn mở đầu của Chiến tranh Triều Tiên, thuyền của họ cùng với nhiều thủy thủ của người Nhật bị quân đội Mỹ ép vận chuyển lực lượng và quân nhu tới Triều Tiên. Thuyền Nhật Bản đóng vai trò không nhỏ trong cuộc đổ bộ vào Incheo và Vịnh Wonsan. Tozai Kisen là một trong những công ty đóng tàu tham gia xông xáo hơn cả. Hãng đã kí kết hợp đồng cung cấp 122 thuyền nhỏ và khoảng 1.300 thủy thủ làm nhiệm vụ vận chuyển và dỡ hàng cho Tư Lệnh Hậu Cần Nhật Bản (JLC) của Mỹ.

      “Công nhân Nhật Bản được tuyển dụng thông qua các chương trình thu mua đặc biệt chính thức của nhà chức trách Nhật Bản và qua các công ty như Tozai Kisen để dỡ quân nhu, sửa chữa thiết bị và thực hiện các nhiệm vụ hậu phương khác cho các căn cứ Anh/Mỹ đóng tại Triều Tiên trong cuộc chiến. Họ bị giam cầm trong các căn cứ hoặc trên tàu chở hàng của Nhật (đã đặc biệt được cách tân thành các trang trại nổi), thả neo tại các bến cảng Triều Tiên. Một bài báo đăng trên tờ Asahi Shimbun vào tháng 1 năm 1953 cho hay có khoảng 1.000 nhân công Nhật Bản vẫn tiếp tục tham gia vào công việc này lúc bấy giờ tại Triều Tiên. Theo như ước tính của Cơ Quan Thu Mua Đặc Biệt Nhật Bản, 56 thủy thủ và công nhân Nhật đã tử nạn trên chiến trường Triều Tiên nội trong 6 tháng đầu năm của cuộc chiến, 23 người trong số đó thiệt mạng khi các tàu của Nhật bị bom đánh chìm. Tổng số dân Nhật qua đời trong Chiến tranh Triều Tiên tới nay vẫn chưa được công bố chính thức, và bản thân nhà chức trách Mỹ hay Nhật cũng chưa từng chính thức công nhận vai trò của nước này trên chiến trường.”

      Phong trào sinh viên và các cuộc khởi nghĩa trường học leo thang tại Nhật Bản và các khu vực khác trên thế giới trong những năm 60.
      |Trở về Mục Lục|


      Sản Xuất




      Một ngôi nhà ở Yamate, khu dân cư ở Yokohama nơi đặt bối cảnh của From Up on Poppy Hill
      Vào ngày 15/12/2010, Studio Ghibli chính thức công bố dự án phim ra mắt vào năm 2011 mang tên From Up on Poppy Hill. Anime dựa trên shoujo manga cùng tên của Sayama Tetsuo và Takahashi Chizuru. Đây là tác phẩm thứ hai của đạo diễn Miyazaki Gorō, sau Tales from Earthsea (2006). Ông là con trai của nhà đồng sáng lập Studio Ghibli kiêm đạo diễn nổi tiếng Miyazaki Hayao. Phim là thành quả hợp tác giữa Studio Ghibli, Nippon Television, Dentsū, Hakuhōdō DY Media Partners, nhà phân phối phiên bản xem tại gia Walt Disney Pictures, Mitsubishi Corporation và nhà phân phối tại các rạp chiếu bóng Toho.

      Khâu sản xuất đã ít nhiều bị ảnh hưởng do trình trạng cúp điện trên diện rộng sau thảm họa kép động đất và sóng thần Tohoku xảy ra vào năm 2011. Đoàn buộc phải chuyển sang quay vào buổi đêm để giảm thiểu tình trạng trì trệ tiến độ. Khi được hỏi về tiến độ phim, các nhân viên cho hay đã xong việc “khoảng 50%” nhưng “nếu không có thảm họa kia thì giờ đã được 70% rồi”. Mặc dù vậy, Miyazaki Hayao khẳng định ngày trình chiếu (16/7/2011) vẫn sẽ không thay đổi, do đây là nhiệm vụ của đoàn. Miyazaki Gorō cho biết hầu hết các nhân viên đều không chịu ảnh hưởng bởi thiên tai, song có vài người đã bị “ảnh hưởng tâm lí và phải mất một thời gian mới bình phục trở lại”.

      Miyazaki Gorō trước đó đã nghiên cứu về Yokohama. Ông khẳng định sẽ trung thành với các tư liệu lịch sử của thành phố, song khi nhận thấy “việc chỉ tái hiện thành phố trong thời kì đó dẫu sẽ làm phim trở nên chân thực nhưng chưa chắc đã truyền tải được cái đẹp”. Thế nên Miyazaki đã quyết định miêu tả địa danh này “thật lung linh và náo nhiệt” qua điểm nhìn của các nhân vật. Trong lúc thiết kế Phố Latin, Miyazaki đã làm việc sát sao với các đạo diễn mỹ thuật. Họ đưa ra ý tưởng về “một toà nhà vô số phòng, nơi tập hợp những thứ linh tinh” và cố gắng “xem xét kiến trúc của tòa nhà, đồng thời nhớ lại những năm tháng đại học của tôi cùng đống hầm bà lằng và sự bẩn thỉu [Miyazaki] đã phải trải qua.”

      ► Animation

      Đạo diễn animation gồm có Yamashita Akihoko, Yamagata Atsushi và Kōsaka Kitarō. Các animator chủ chốt gồm có Futaki Makiko, Ōtsuka Shinji, Honda Takeshi, Hashimoto Takashi, Hamasu Hideki, Tanaka Atsuko, Yonebayashi Hiromasa và Aoyama Hiroyuki.

      ► Diễn viên lồng tiếng

      Danh sách diễn viên lồng tiếng chính thức được công bố vào ngày 13/5/2011. Nữ diễn viên Nagasawa Masami sẽ vào vai Matsuzaki Umi. Đây là vai diễn đầu tiên cô hợp tác với Studio Ghibli. Okada Junichi, thành viên nhóm V6, sẽ thủ vai Kazama Shun. Ngoài ra, Fubuki Jun, Takeshita Keiko, Naito Takashi, Kagawa Teruyuki, Ishida Yuriko, Ōmori Nao và Kazama Shunsuke sẽ đóng các vai phụ trong phim.

      Tới tháng 6 năm 2012, báo chí đưa tin Kathleen Kennedy và Frank Marshall sẽ sản xuất phiên bản thuyết minh của From Up On Poppy Hill ở Bắc Mỹ. Kịch bản do Karey Kirkpatrick phụ trách dưới sự chỉ đạo của đạo diễn Gary Rydstrom. Dàn diễn viên lồng tiếng gồm có Sarah Bolger, Anton Yelchin, Ron Howard, Jeff Dunham, Gillian Anderson, Chris Noth, Ronan Farrow, Isabelle Fuhrman, Emily Osment, Charlie Saxton, Alex Wolff, Beau Bridges, Jamie Lee Curtis, Bruce Dern, Christina Hendricks, Elisa Gabrielli và Aubrey Plaza.

      ► Âm nhạc



      Bìa CD From Up on Poppy HillSoundtrack
      Nhạc nền của From Up on Poppy Hill do Takebe Satoshi sáng tác. Tin ca sĩ Teshima Aoi sẽ thể hiện bản nhạc nền “Sayonara no Natsu ~Kokuriko-zaka kara~” được công bố vào tháng 12 năm 2010.

      Ca khúc “Ue o Muite Arukō” (thường được biết đến với cái tên “Sukiyaki” ở các nước nói tiếng Anh) do Sakamoto Kyu trình bày vào năm 1961 là một trong các bản insert song của anime. Phiên bản không lời của ca khúc sau đó đã được nhạc sỹ Kenny Ball phát hành tại Mỹ dưới tựa đề “Sukiyaki”. “Ue o Muite Arukō” được lựa chọn vì From Up on Poppy Hill lấy bối cảnh năm 1963, trùng năm bài hát được ra mắt và trở thành hit ở Mỹ.

      Nhạc Nền
      Album nhạc nền dài 50 phút 32 giây được Tokuma Japan Communications phát hành vào ngày 13/7/2011. Nó bao gồm nhạc nền của From Up on Poppy Hill, cùng 6 bản nhạc insert song và bài hát chủ đề.

      Tất cả các ca khúc đều do Takebe Satoshi biên soạn, trừ một số bản được lưu ý dưới đây.

      STT
      Tên
      Thời lượng
      1.
      "Sunrise — The Breakfast Song (夜明~朝ごはんの歌 Yoake ~ Asa-gohan no Uta?)" (do Miyazaki Gorō và Taniyama Hiroko viết lời, Taniyama Hiroko soạn nhạc, Takebe Satoshi cải biên, Teshima Aoi trình bày)
      3:04
      2.
      "Off to School in the Morning (朝の通学路 Asa no tsūgakuji?)"
      2:21
      3.
      "A Big Commotion (馬鹿騒ぎ Bakasawagi?)"
      1:03
      4.
      "Reminiscence (追憶 Tsuioku?)"
      2:02
      5.
      "Fickle as the Weather (お天気むすめ Otenki Musume?)"
      0:45
      6.
      "Quartier Latin (カルチェラタン Karuche Ratan?)"
      2:22
      7.
      "The Editing Room in Sunset (夕陽の部室 Yūhi no Bushitsu?)"
      1:25
      8.
      "Sukiyaki (上を向いて歩こう Ue o Muite Arukō?)" (Rokusuke Ei viết lời, Nakamura Hachidai soạn nhạc, Sakamoto Kyu trình bày)
      3:11
      9.
      "The Flags in the Painting (絵の中の旗 E no Naka no Hata?)"
      0:29
      10.
      "When the White Flower Blossomed (Choir) (白い花の咲 (合唱) Shiroi Hana no Saki (Gasshō))" (Terao Chisa viết lời, Tamura Shigeru soạn nhạc)
      0:57
      11.
      "First Love (初恋の頃 Hatsukoi no Koro?)" (do Miyazaki Gorō và Taniyama Hiroko viết lời, Taniyama Hiroko soạn nhạc, Takebe Satoshi cải biên, Teshima Aoi trình bày)
      1:29
      12.
      "The Party (パーティー Pātī?)"
      1:50
      13.
      "Red River Valley (Choir) (赤いの河の谷間 (合唱) Akai Kawa no Tanima (Gasshō)?)" (nhạc truyền thống, do Miyazaki Gorō dịch ra tiếng Nhật)
      0:43
      14.
      "Signal Flags (信号旗 Shingōki?)"
      1:31
      15.
      "The Canal at Dusk (夕暮の運河 Yūgure no Unga?)"
      1:50
      16.
      "The Big Cleanup (大掃除 Ōsōji?)"
      2:15
      17.
      "Looking Back (回想 Kaisō?)"
      2:20
      18.
      "Ame no Kaerimichi (雨の帰り道?, Walking Home in the Rain)"
      1:31
      19.
      "A Dream (夢 Yume?)"
      2:52
      20.
      "Stand United (団結 Danketsu?)"
      1:04
      21.
      "The Escape (エスケープ Esukēpu?)"
      0:59
      22.
      "The Leaden Sea (鉛色の海 Namari Iro no Umi?)"
      0:35
      23.
      A Confession (告白 Kokuhaku?)"
      1:19
      24.
      "Longing for Mother's Return (母 恋うる心 Haha — Kōru Kokoro?)"
      3:04
      25.
      "The Reunion (再会 Saikai?)"
      0:48
      26.
      "Welcome to the Quartier Latin (ようこそカルチェラタンへ Yōkoso Karuche Ratan e?)"
      1:18
      27.
      "The Indigo Waves (Choir) (紺色のうねりが (合唱) Kon'iro no Uneri ga (Gasshō))" (Miyazaki Gorō và Miyazaki Hayao viết lời, nguyên tác Miyazawa Kenji, Taniyama Hiroko soạn nhạc, Takebe Satoshi cải biên)
      1:14
      28.
      "Racing Towards a New Day (明日に向って走れ Ashita ni Mukatte Hashire?)"
      1:37
      29.
      "Summer of Farewells — From Up On Poppy Hill (さよならの夏 ~コクリコ坂から~ Sayonara no Natsu ~Kokuriko-zaka Kara~?)" (Marimura Yukiko viết lời, Sakata Kōichi soạn nhạc, Takebe Satoshi cải biên, Teshima Aoi trình bày)
      4:08


      |Trở về Mục Lục|


      Phát Hành




      Một phiên bản áp phích chiếu rạp khác
      From up on Poppy Hill được trình chiếu tại Nhật vào ngày 16/7/2011. Phim xếp thứ 3 trong tuần đầu công chiếu, để thua Harry Potter and the Deathly Hallows – Phần 2 và hai phiên bản Pokémon the Movie: Black—Victini and ReshiramPokémon the Movie: White—Victini and Zekrom của anime movie Pokémon thứ 14. Phim thu về xấp xỉ 587 triệu yên và thu hút khoảng 450.000 khán giả. Ngoài ra, một triển lãm mang tên THE ART OF From Up on Poppy Hill đã được tổ chức tại trung tâm thương mại Seibu ở Ikebuhuro từ ngày 23 tới 28/7/2011, cùng thời điểm phim được công chiếu. Buổi triển lãm trưng bày 130 hình minh họa và storyboard dùng để dựng phim. Triển lãm sau đó chuyển sang chi nhánh ở Yokohama của hãng Sogo từ ngày 10 tới 15/8/2011.

      Phim được Walt Disney Pictures công chiếu ở Pháp vào ngày 11/1/2012 dưới tựa đề La Colline aux coquelicots. Anime thu hút 287.281 người xem trong 4 tuần công chiếu, hơn hẳn con số 143.641 người của Tales from Earthsea trong năm 2007.

      Vào ngày 17/8/2011, báo chí đưa tin From Up on Poppy Hill sẽ là một trong những bộ phim Nhật Bản tham gia Liên Hoan Phim Quốc Tế Toronto 2011, diễn ra từ ngày 8/9 tới 18/9 cùng năm. Ngoài rạ, phim còn được chiếu trong chuyên mục “Công chiếu phim Quốc Tế dành cho phim Nhật Bản”, thuộc một phần sự kiện “Điện Ảnh Thế Giới Đương Đại” của liên hoan.

      Phim chỉ được chiếu ở một vài rạp ở Bắc Mỹ từ ngày 15/3/2013. Nhân dịp này, đạo diễn Gary Rydstrom đã chỉ đạo thực hiện một bản thuyết minh tiếng Anh do The Kennedy/Marshall Company sản xuất – chính là công ty quản lý việc lồng tiếng cho hai anime PonyoThe Secret World of Arrietty. Phim được phân phối bởi GKIDS, tức đây là tác phẩm đầu tiên của Studio Ghibli không phải do Walt Disney Studio Motion Pictures phát hành ở Bắc Mỹ kể từ sau Princess Mononoke (1999). Vào ngày 23/09/2013, phiên bản đĩa Blu-ray được StudioCanal phát hành ở Anh.
      |Trở về Mục Lục|


      Đón Nhận



      ► Doanh thu phòng vé

      Trong thời gian khảo sát từ ngày 16/7 tới 18/7/2011, Bunkatsushin.com cho hay tổng doanh thu phòng vé của From Up on Poppy Hill đạt 587.337.400 yên, với 445.000 lượt người xem. Một cuộc khảo sát online và trên điện thoại di dộng cho hay số lượng khán giả nữ và nam lần lượt chiếm 57% và 43%; trong số đó, 34,8% khán giả đang trong độ tuổi 20; 18,9% khán giả tuổi 16 đến 19; 32,6% khán giả trên 30 tuổi. Phim đã vượt qua mốc tổng doanh thu 3 tỉ yên trong hai ngày cuối tuần 21 – 22/8/2011.

      From Up on Poppy Hill thu về 1.002.895 USD ở Bắc Mỹ và 60.456.530 USD tại các khu vực khác. Tổng doanh thu toàn cầu là 61.459.425 USD. Tới ngày 11/5/2014, theo Box Office Mojo, phim xếp thứ 14 trong danh sách các anime có tổng doanh thu cao nhất nước Mỹ. So với các anime Grave of the Fireflies, Only Yesterday, Ocean Waves, Whisper of the HeartMy Neighbors the Yamadas, From Up on Poppy Hill là bộ phim đạt doanh thu lớn nhất mà có cốt truyện tập trung xoay quanh những phong tục tập quán của một địa phương tại Nhật Bản, và là bộ phim có doanh thu xếp thứ 7 trong số những phim của Ghibli tại Mỹ (bị thụt hạng sau khi The Wind Rises ra đời).

      Bộ phim được đón nhận nồng nhiệt tại Pháp, với 287.281 người xem trong bốn tuần, cao hơn hẳn Tales from Earthsea.

      ► Đánh giá

      Kokuriko – zaka Kara chủ yếu nhận được phản hồi tích cực từ giới phê bình. Trên website Rotten Tomatoes, phim được đánh giá 83% tươi ngon dựa trên 83 bình luận, với nhận xét chung rằng: “Dịu dàng và hoài niệm, From Up on Poppy Hill là một trong những bộ phim nhẹ nhàng hơn cả của Studio Ghibli và dẫu nó không phải một bộ phim mang tính đột phá của thể loại hoạt hình, nó vẫn mang phong cách nhẹ nhàng và đáng yêu mà bất kì fan Ghibli nào cũng quen thuộc.” Website Metacritic cho phim 71/100 điểm dựa trên 20 bài Review.

      Mark Schilling của The Japan Times miêu tả From Up on Poppy Hill là một “bộ phim trong sáng, cường điệu dành cho giới trẻ”. Dẫu chê phần cốt truyện “dễ đoán”, thậm chí “nhàm chán”, ông kết thúc bài nhận xét bằng việc ca ngợi “bộ phim là kho báu chứa đựng những nét đặc trưng của Nhật Bản trong những năm 1963, đem đến cho người xem cảm giác chân thực và đầy hoài niệm.” Kondo Takashi của The Daily Yomiuri nói “bộ phim ngập tràn những trải nghiệm đã mai một trong cuộc sống thường nhật của chúng ta”. Kondo nói khâu đồng sản xuất của hai cha con [Hayao và Gorō] đã đem lại kết quả xuất sắc và Kokuriko – zaka Kara là một thế giới cần được nhìn thấy trong ngày nay.”

      A.O Scott của tờ The New York Times khen phần hình ảnh và cách xây dựng nhân vật của From Up on Poppy Hill. Mặc dù vậy, Scott nhận định “một số bi kịch trong phần tiểu sử có thể không phù hợp với khán giả nhỏ tuổi”, ông nói người lớn “nhiều khả năng sẽ bị cuốn hút bởi câu chuyện tình và cách tái hiện tinh tế về một thời kì đã qua nhưng không hoàn toàn bị lãng quên”. Kenneth Turan của Los Angeles Time ví bộ phim như “một giấc mơ ngược thời gian về quá khứ cách đây không xa, một câu chuyện ngọt ngào và thực sự xúc động, đồng thời cho thấy sự phối hợp giữa nhà hoạt hình người Nhật xuất sắc nhất và người con trai đầy triển vọng của ông.” Turan còn nói Phố Latin “chính là Đồi Mỹ Nhân” lúc nó trở nên huy hoàng nhất. “Về phần xây dựng nhân vật” - Turan nói: “Sự tôn trọng và phép lịch sự mà tất cả các nhân vật dành cho nhau, kể cả khi những nhân vật chính là thiếu niên, quả là khác xa những gì đang diễn ra trong thời buổi hiện nay.”.

      Tại Pháp, phim được báo chí ca ngợi hết lời, mặc dù một số người đánh giá phần kịch bản và hoạt hình còn thiếu thiếu cái gì đó.

      ► Thành Tựu

      Năm
      Giải thưởng
      Hạng Mục
      Người nhận
      Kết Quả
      2011
      Liên hoan phim quốc tế lần thứ 26
      Giải do Khán giả bình chọn cho phim drama dài xuất sắc nhất

      Đề cử
      2012
      Giải Viện Hàn lâm Nhật Bản lần thứ 36
      Phim hoạt hình của năm

      Thắng
      Giải thưởng anime Tokyo lần thứ 11

      Liên hoan phim hoạt hình quốc tế Annecy lần thứ 34
      Giải Cristal cho hình ảnh đẹp nhất
      Miyazaki Gorō
      Đề cử
      Liên hoan phim châu Á – Thái Bình Dương lần thứ 6
      Phim hoạt hình dài xuất sắc nhất

      Liên hoan phim quốc tế Gijón lần thứ 50
      Phim dài xuất sắc nhất

      2013
      Giải Annie lần thứ 40
      Giải cho Kịch bản trong khâu sản xuất một bộ phim hoạt hình dài
      Miyazaki Hayao
      Niwa Keiko
      Karey Kirkpatrick
      Giải Trailer Vàng lần thứ 14
      Trailer Hoạt Hình/Gia Đình ngoại quốc xuất sắc nhất
      Zealot Productions
      Walt Disney Pictures
      GKids
      Thắng
      Giải của Hội phê bình phim trực tuyến lần thứ 17
      Phim hoạt hình dài xuất sắc nhất

      Đề cử
      Giải của Hội phê bình phim Chicago lần thứ 26
      Phim hoạt hình dài xuất sắc nhất

      Giải của cộng đồng quốc tế những người yêu điện ảnh lần thứ 11
      Phim hoạt hình xuất sắc nhất

      Giải của Hội phê bình phim Utah lần thứ 12
      Phim hoạt hình dài xuất sắc nhất

      Hạng 2, đồng hạng với The Wind Rises
      2014
      Giải Sao Chổi lần thứ 40
      Phim hoạt hình xuất sắc nhất

      Đề cử


      |Trở về Mục Lục|


      Nguồn: EnWiki | Dịch: ~Sahara Mizu~ | Website: Vn-Sharing.Net
      Vui lòng ghi rõ link nguồn khi copy bài viết.
      Nếu phát hiện lỗi sai, thiếu sót trong bài dịch, xin vào topic hồi báo, góp ý.


      Sửa lần cuối bởi Snow; 23-03-2016 lúc 15:47. Lý do: Đã +R

    Đánh dấu

    Quyền viết bài

    • Bạn không thể đăng chủ đề mới
    • Bạn không thể gửi trả lời
    • Bạn không thể gửi đính kèm
    • Bạn không thể sửa bài
    •  

    Theo giờ GMT +7. Bây giờ là 13:13.

    Powered by vBulletin.
    Copyright© 2024 vBulletin Solutions, Inc. All rights reserved.
    Board of Management accepts no responsibility legal of any resources which is shared by members.