oOo VnSharing oOo

Go Back   Diễn đàn > VnSharing - Trung tâm điều hành > VnSharing Wiki > Âm nhạc >

Đã đóng
Kết quả 1 đến 1 của 1
 
  • Công cụ
  • Hiển thị
    1. #1
      My rainbow
      Sieghart
      Tham gia ngày
      13-11-2014
      Bài viết
      918
      Cấp độ
      1420
      Reps
      70939

      [Artist] Alessandro Scarlatti





      Alessandro Scarlatti


      Alessandro Scarlatti
      .

      Alessandro Scarlatti (2 tháng 5, 1660 – 22 tháng 10, 1725) là một nhà soạn nhạc gốc Ý theo trường phái Baroque, đặc biệt trứ danh với các vở kịch opera và cantata thính phòng. Ông được xem là người sáng lập nên nhạc viện opera Neapolitan. Ông chính là cha đẻ của hai nhà soạn nhạc khác tên là Domenico Scarlatti và Pietro Filippo Scarlatti.


      Cuộc đời

      .

      Scarlatti sinh ra tại Palermo, nơi sau này trở thành một phần của Vương quốc Sicily. Ông là học sinh của Giacomo Carissimi ở Rome, và một số giả thuyết cho rằng ông có mối liên hệ với phía bắc nước Ý vì những tác phẩm đầu tay của ông chịu ảnh hưởng nhiều từ những nhà soạn nhạc Stradella và Legrenzi. Khi soạn nên vở opera Gli Equivoci nell sembiante (năm 1679) tại Rome, ông đã được sự ủng hộ từ Nữ hoàng Christina nước Thụy Điển (thời gian đó bà đang ở tại Rome), và ông đã trở thành nhạc trưởng Maestro di Cappella và làm việc dưới sự bảo hộ của bà. Vào tháng hai năm 1684, ông đã trở thành Tổng đốc xứ Naples với danh hiệu Maestro di Cappella, có lẽ là nhờ vào vị thế của em gái mình cũng là một ca sĩ opera và là tình nhân của một quý tộc Neapolitan có quyền thế. Sau đó ông đã viết nên những bản opera dài kì, mang sức ảnh hưởng to lớn và ấn tượng sâu sắc về sau, và ngoài ra còn những bản nhạc khác dành cho những dịp lễ của bang.

      Vào năm 1702, Scarlatti đã rời khỏi Naples và không quay trở về mãi sau đến khi thời kì đô hộ của đế quốc Tây Ban Nha chấm dứt và quyền lực thuộc về những người dân Áo. Trong giai đoạn này, ông tỏ vẻ hài lòng khi nằm dưới sự bảo hộ của Ferdinando de' Medici, người sở hữu những rạp hát nơi ông soạn nên những bản opera gần khu Florence, và sự bảo hộ của Cardinal Ottoboni, người trao ông chức danh maestro di cappella và quyền biểu diễn ở Basilica di Santa Maria Maggiore tại Rome vào năm 1703.

      Sau khi viếng thăm Venice và Urbino vào năm 1707, Scarlatti đã giữ trọng trách tại Naples vào năm 1708, và cư ngụ ở đó cho đến năm 1717. Trước khi Naples trở nên chán ngán những tác phẩm âm nhạc của ông thì người Roman đã xem trọng nó hơn. Tại Teatro Capranica ở Rome, ông đã soạn một vài tác phẩm opera đặc sắc nhất của mình (trong đó có thể kể đến là Telemaco năm 1718; Marco Attilio Regolò năm 1719; La Griselda năm 1721), và một số bản nhạc nhà thờ tiêu biểu bao gồm những tác phẩm hợp xướng và giao hưởng tôn giáo được sáng tác nhằm vinh danh Thánh Cecilia, như bản Cardinal Acquaviva vào năm 1721. Tác phẩm lớn cuối cùng của ông là bản serenade dành cho đám cưới của hoàng tử xứ Stigliano vào năm 1723 dường như vẫn chưa được hoàn chỉnh. Ông mất vào năm 1725 tại Naples.


      Phong cách âm nhạc của Scarlatti
      .


      Những bản nhạc của Scarlatti là sự kết nối và hòa quyện giữa phong cách âm nhạc Baroque hợp xướng của nước Ý thời kì đầu vào thế kỷ thứ 17 ở Florence, Venice và Rome, với trường phái cổ điển của thế kỷ thứ 18. Tuy vậy, phong cách của Scarlatti mang ý nghĩa vượt xa hơn về khía cạnh chuyển tiếp thời kì trong nền âm nhạc phương Tây; như hầu hết các đồng nghiệp ở Naples của mình, ông có tầm nhìn và hiểu biết hợp thời về mặt tâm lý của các biến điệu và cũng thường áp dụng những trường đoạn luôn biến đổi, thứ thông thường ở trường học Napoli. Những vở opera đầu tay của ông (Gli equivoci nel sembiante 1679; L'honestà negli amori 1680 bao gồm điệu "Già il sole dal Gange"; Il Pompeo 1683 gồm "O cessate di piagarmi" và "Toglietemi la vita ancor," và những bản nhạc khác vào năm 1685) vẫn còn giữ lại nhịp điệu cũ hơn và được phổ nhạc khéo léo, đôi khi kết hợp với tứ tấu đàn dây được xử lý một cách tỉ mỉ, thỉnh thoảng chỉ kết hợp với duy nhất cách chơi continuo. Trước năm 1686, ông đã viết nên "khúc dạo đầu mang phong cách Ý" (phiên bản thứ hai của Dal male il bene), và bỏ qua cách chơi ground bass (còn gọi là Ostinato) và dạng điệp khúc bậc hai trong hai khổ nhạc để chuyển biến chúng thành dạng bậc ba hay là Da capo. Những bản opera hay nhất của ông trong thời kì này là La Rosaura (1690, Gesellschaft für Musikforschung), và Pirro e Demetrio (1694) chứa những giai điệu "Le Violette", và "Ben ti sta, traditor".



      Scarlatti thuở thiếu thời.

      Từ năm 1697 trở đi (La caduta del Decemviri), phong cách của ông phần nào ảnh hưởng bởi phong cách chơi nhạc của Giovanni Bononcini và có lẽ còn do gu thưởng nhạc của tòa án tổng đốc, vì thế giai điệu của những bản opera của ông đã trở nên thông thường hơn mà vẫn giữ được nét sáng chói trong đó (L'Eraclea, 1700), kèn oboe và trumpet vẫn được dùng thường xuyên, hợp tấu cùng violin. Những vở opera sáng tác dành cho Đại công tước Ferdinando de' Medici đã bị thất lạc, rất tiếc là những bản này thể hiện rõ nét phong cách chơi nhạc của ông cũng như sự đáp lại công tước với lòng cảm hứng âm nhạc một cách chân thành.

      Bản Mitridate Eupatore là một trong những kiệt tác của ông được sáng tác tại Venice vào năm 1807, vượt trội hơn hẳn bất cứ những tác phẩm nào mà ông từng sáng tác ở Naples, cả về kĩ thuật lẫn cảm thụ. Những bản opera Neapolitan sau này (L'amor volubile e tiranno 1709; La principessa fedele 1710; Tigrane, 1714, &c.) thường chỉ trưng bày kĩ thuật là chủ yếu hơn là khơi gợi về mặt xúc cảm. Những cách thức và công cụ tạo nên dấu ấn trong những tác phẩm trước đó của ông phải kể đến việc giọng hát được kết hợp với tứ tấu đàn dây, cách harpsichord được chơi cùng với ritornelli. Trong bản Teodora (1697), ông là người đã khởi đầu cách chơi giao hưởng ritornello.

      Nhóm nhạc opera cuối cùng mà ông đã sáng tác cho thành Rome, biểu lộ một xúc cảm lãng đãng, sâu sắc nên thơ, cùng với những giai điệu hào hùng trang nghiêm, đan xen với cảm giác kịch tính mãnh liệt, đặc biệt trong một trường đoạn opera, kĩ thuật lần đầu ông dùng đến vào giai đoạn đầu vào năm 1686 (Olimpia vendicata) và sự phổ khúc mang phong cách hiện đại của mình chính là cách dùng sừng thổi, đem lại những hiệu ứng nổi bật đặc sắc.


      Bên cạnh những bản opera, oratorio (Agar et Ismaele esiliati, 1684; La Maddalena, 1685; La Giuditta, 1693; Christmas Oratorio, c. 1705; S. Filippo Neri, 1714) và serenata của ông đều mang phong cách tương tự nhau. Scarlatti đã phổ nhạc cho năm trăm bản chamber-cantatas dành cho hát hơn. Những bản này đã thể hiện được kĩ thuật hòa tấu thính phòng khéo léo trong thời kì âm nhạc này, đáng tiếc là chúng hầu như chỉ là bản thảo viết tay, nhưng nếu nghiên cứu tỉ mỉ chúng sẽ mang lại cho học giả những khái niệm đầy đủ về quá trình phát triển và biến đổi trong phong cách phổ nhạc của Scarlatti.



      Bản soạn thảo viết tay của Scarlatti's Griselda


      Vài Mass còn lại của ông (câu chuyện về việc ông ấy đã soạn nên hai trăm bản nhạc hầu như rất khó tin) và những hợp xướng nhà thờ không quan trọng cho lắm, ngoại trừ bản St Cecilia Mass (1721) thể hiện một trong những nỗ lực ban đầu của ông khi xây dưng nên phong cách này, thứ đạt đến đỉnh cao trong thời kì Johann Sebastian Bach và Beethoven. Các bản nhạc không lời do ông soạn nên dù không hấp dẫn bằng nhưng cũng tạo nên cảm giác hoài cổ như những vở opera của ông.





      Bản chơi lại
      .

      • Akademie für alte Musik Berlin, René Jacobs. (2007). Griselda. Harmonia Mundi HMC 901805.07. Dorothea Röschmann, Lawrence Zazzo, Veronica Cangemi, Bernarda Fink, Silvia Tro Santafe, Kobie van Rensburg.
      • Le Consert de l'Hostel Dieu. (2006). Il martirio di Sant'Orsola. Ligia digital: 0202176-07
      • Le parlement de musique. (2005). La Giuditta. Ambronay editions: AMY004
      • Ensemble Europa Galante. (2004). Oratorio per la Santissima Trinità. Virgin Classics: 5 45666 2
      • Academia Bizantina. (2004). Il Giardino di Rose. Decca: 470 650-2 DSA.
      • Orqestra barocca di Sevilla . (2003). Colpa, Pentimento e Grazia. Harmonia Mundi: HMI 987045.46
      • Seattle Baroque. (2001). Agar et Ismaele Esiliati. Centaur: CRC 2664
      • Capella Palatina. (2000). Davidis pugna et victoria. Agora: AG 249.1
      • Akademie für alten Musik Berlin, René Jacobs. (1998). Il Primo Omicidio. Harmonia Mundi Fr. Dorothea Röschmann, Graciela Oddone, Richard Croft, René Jacobs, Bernarda Fink, Antonio Abete
      • Ensemble Europa Galante. (1995). Humanita e Lucifero. Opus 111: OPS 30–129
      • Ensemble Europa Galante. (1993). La Maddalena. Opus 111: OPS 30–96
      • Allesandro Stradella Consort. (1992). Cantata natalizia Abramo, il tuo sembiante. Nuova era: 7117
      • I Musici. (1991). Concerto Grosso. Philips Classics Productions: 434 160-2
      • I Musici. William Bennett (Flute), Lenore Smith (Flute), Bernard Soustrot (Trumpet), Hans Elhorst (Oboe). (1961). "12 Sinfonie di Concerto Grosso" Philips Box 6769 066 [9500 959 & 9500 960 – 2 vinyl discs]
      • Emma Kirkby, soprano and Daniel Taylor, countertenor, with the Theatre of Early Music. (2005). Stabat Mater. ATMA Classique: ACD2 2237
      • Francis Colpron, recorder, with Les Boréades. (2007). Concertos for flute. ATMA Classique: ACD2 2521
      • Nederlands Kamerkoor, with Harry van der Kamp, conductor. (2008). Vespro della Beata Vergine for 5 voices and continuo. ATMA Classique: ACD2 2533



      Nguồn: Wikipedia.Org | Dịch: Chloe | Website: Vn-Sharing.Net
      Vui lòng ghi rõ link nguồn khi copy bài viết.
      Nếu phát hiện lỗi sai, thiếu sót trong bài dịch, xin vào topic hồi báo, góp ý.
      Sửa lần cuối bởi Chloe; 11-09-2015 lúc 01:29.

    Đánh dấu

    Quyền viết bài

    • Bạn không thể đăng chủ đề mới
    • Bạn không thể gửi trả lời
    • Bạn không thể gửi đính kèm
    • Bạn không thể sửa bài
    •  

    Theo giờ GMT +7. Bây giờ là 22:09.

    Powered by vBulletin.
    Copyright© 2024 vBulletin Solutions, Inc. All rights reserved.
    Board of Management accepts no responsibility legal of any resources which is shared by members.