“Ả gái điếm ngồi trên vòng xoay ngựa gỗ, một tay nắm chặt thanh sắt đứng một tay đặt trên đầu ngựa cứng, hai chân kẹp chặt vào hai bên yên ngựa, cắn răng nghiến xuống. Nhịp ngựa gỗ đung đưa đung đưa như gã người yêu cũ bây giờ chẳng biết đang ở chốn nào.”
Đoàn thủy thủ vớt được một chiếc thuyền con lên khỏi biển, cô gái trên đấy nói rằng cô là người may mắn sống sót của một vụ đắm tàu vĩ đại. Nhiều người đã chết, những đứa trẻ khóc vang khi cha mẹ chúng cuống cuồng tìm chỗ trú thân trước bàn tay độc địa của biển cả. Cô gái bảo Chúa trên cao đã cứu cô, ngài gửi xuống một chiếc thuyền trong lúc cần kíp nhất, khi bàn chân cô đã nhúng phân nửa xuống nước. Và với không một lời phản kháng, cô bước lên.
Đó là một tàu bắt hải cẩu đang vào mùa, sàn tàu ban đêm còn vẳng mùi máu của hàng trăm cuộc đồ tể ban sáng, gió biển không át được mùi tanh mặn đặc trưng bám dai dẳng trên thớ gỗ con tàu.
Ngài thuyền trưởng là quý ông của giới thủy thủ này, ngài rộng lượng và thứ tha và toan tính, ngài có bờ vai rộng với bộ ria được cắt tỉa lần cuối trước khi ra khơi hàng tháng trước. Thuyền trưởng dành buồng trống có khóa sắt duy nhất cho cô gái, ngài rõ được cái nguy hiểm đè nặng lên một người phụ nữ đặt giữa một đám đàn ông đói khát, ngài thông cảm và bảo rằng cô hãy an tâm đi vì khóa này chắc chắn và chỉ mình ngài có chìa để mở mà thôi.
Vào ngày thứ nhất, cô gái mở cửa phòng vào lúc mặt trời mới mọc, khi mọi người khác còn chưa thức dậy từ cái giường ấm của họ. Nàng ta cất giọng lanh lảnh gọi mọi người dậy, mở cửa nắp nhìn xuống những buồng tập thể dành cho thủy thủ đoàn, nở nụ cười sáng rỡ thay cho ánh sáng ban mai.
Khởi đầu tốt đẹp là thế, đến trưa thì mọi việc tệ dần đi. Dường như có một lời nguyền nào đấy ám lên những người đàn ông của con tàu, khiến cho đôi chân họ lảo đảo còn đôi tay thì run rẩy, kéo buồm chẳng xong mà đánh bắt hải cẩu cũng dở. Khi các thuyền nhỏ chia ra săn bắt thì bằng cách nào đấy mà mỏ neo bị tuột đi khiến tàu chệch dần về phía mặt trời. Thuyền trưởng bực dọc gọi thuyền phó mắng nhiếc một trận vì không để tâm cẩn thận. Vị này không phục nhưng không thể cãi lại ông, đành ngậm miệng vâng lời mà đích thân đi thay cái mỏ neo bị đứt nọ.
Khi các tàu thay phiên nhau mang hải cẩu về tàu lớn thì vị thuyền phó kia nhận ra thuyền mang số hiệu SNF 404 vẫn chưa hề trở lại. Họ dành cả chiều chia nhau ra dò mặt biển nhưng không thể tìm được, dường như thuyền ấy biến vào hư không.
Tối đó một cơn bão biển bất chợt ập đến, không mấy ngạc nhiên với thời tiết của đại dương, vị thuyền trưởng tài ba phân bố nhân lực và đích thân lèo lái con tàu vượt qua sóng dữ. Qua nửa đêm thì họ chiến thắng. Thuyền phó cho phép thủy thủ đoàn ăn mừng với nhau bằng một ngụm rum và nhiều thứ hoan lạc khác. Tâm trí mọi người vẫn còn lởn vởn nghi ngại về sự biến mất của đồng bạn, họ không phải những kẻ cuồng tín trên đất liền nhưng phần nào đó trong sự giáo dục trên mặt đất mách bảo họ rằng dường như kẻ đứng sau tất cả là tà thuật ma quái.
Vào ngày thứ hai không ai gọi họ dậy, chỉ có người canh đêm và người đầu bếp đi đổ rác thải của đêm hôm qua là nhìn thấy cảnh mặt trời mọc, thật sự rất đẹp, họ nghĩ, sẽ còn đẹp hơn nếu họ không thấy nó trên biển.
Ngày ấy họ vẫn đi bắt hải cẩu như thường lệ, vì đã vào mùa nên không có ngày nghỉ. Nghề này lấy cả da cả mỡ cả thịt con thú, đến khi lóc chỉ còn xương mới vứt lại xuống biển. Có một con cá mập lớn đánh hơi thấy mùi máu bơi đến, quẫy mình trong nước giựt phập lấy một khúc xương người ta ném xuống. Đoàn thủy thủ nhìn thấy thì cười ồ lên chí thú, gọi đùa nó là con thú cưng của họ, món đồ chơi sang trọng hoang dã, một con chó biển cả.
Bảy thuyền con nay chỉ còn sáu, công suất không bằng mọi ngày nên họ phải làm thêm việc đến chiều muộn mới dừng tay. Thuyền trưởng trông hài lòng với sản lượng của ngày hôm ấy, nói rằng họ có thể đi ngủ sau bữa tối, trừ khi họ muốn nhảy ngay lên giường.
Cơn bão tối ấy ập đến vào lúc chiếc tàu chìm vào giấc say sưa, gần đúng vào giờ hôm qua nó đến, gió cuốn như nụ hôn dồn dập của một người tình nhân cuồng nhiệt. Chàng thủy thủ trên đài quan sát bị nó đánh bất ngờ lúc đang lim dim mắt, bị gió tóm lấy nơi cổ chân rồi quăng thật mạnh trên không, toàn thân anh ta bị siết cứng đờ như bị một con bạch tuột tóm lấy, rơi xuống nước với một tiếng Tõm to. Người lái tàu và tay trực đêm lúc đó chạy ngay ra nhìn, vừa kịp thấy vây cá mập lớn cuốn lấy một thân hình mờ mờ đang dẫy dụa trên mặt nước. Dưới ánh sáng u ám của cái đèn lồng họ chỉ trông rõ được một quai hàm với mấy lớp hàm răng sắc nhọn ngoạm lấy người kia, nuốt trọng tiếng kêu khóc thất thanh mà nạn nhân gào lên.
Sáng hôm sau tin tức này đến được tai thủy thủ đoàn, ai cũng có vẻ thương tiếc, họ dành mấy phút mặc niệm cho người xấu số rồi trở lại với công việc thường ngày. Thuyền trưởng gọi thuyền phó vào phòng mình để chỉ cho anh ta xem lược đồ về các vùng đánh bắt. Khi thuyền phó bảo không hiểu thì ngài chỉ cười khẩy, mỉa vào sự thiếu học của anh ta.
Nhưng thưa ông, tôi làm thủy thủ để không phải đi học, anh ta nói. Ngài thuyền trưởng không trả lời mà chỉ cười, ngay cả ánh mắt cũng cười.
Gần sáng, thuyền phó, người trực đêm cùng mấy thủy thủ trẻ bắt được con cá mập đã bơi theo thuyền họ cả ngày hôm ấy. Họ xỏ một sợi dây thừng xuyên từ đầu đến đuôi nó rồi treo lên cột buồm.
Khi mặt trời mọc một lần nữa, người ta tìm thấy thuyền trưởng trong căn buồng riêng của ông, cửa mở toang với giấy tờ cùng các hình vẽ khó hiểu rơi rớt trên mặt đất. Da ông nhăn tít lại, gương mặt u sầu còn tóc tai thì bạc trắng và xoăn tít. Chẳng cần nhiều giờ đồng hồ để người ta kết luận là ông hóa điên rồi, giữa đống kiến thức vô dụng, vì biết quá nhiều. Thuyền phó lệnh khóa ông lại trong căn buồng trống trên tàu, chính mình tạm nắm chức chỉ huy cao nhất của con tàu. Sau đó anh ta lệnh người ta lái về hướng Tây Nam để đến khu vực đánh bắt tiếp theo.
Nhưng họ đi cả ngày mà vẫn chưa vào được vùng nước lợ, thủy thủ đoàn bắt đầu lo lắng. Thuyền phó trấn an họ bảo rằng anh ta sẽ tự tay cầm lái, và rằng sự lạc lối này là do tay lái tàu chưa đủ kinh nghiệm, hẳn là hắn ta đã đi chệch hướng Tây Tây Nam thay vì Tây Nam theo chỉ dẫn.
Đêm ấy khi thuyền phó đã kéo chăn lên hông mình, chuẩn bị nhắm mắt chìm vào giấc ngủ thì bên ngoài có tiếng hô to. Con tàu đi vào một một vùng sương mù không thấy lối ra. Người ta chưa gặp đám sương ở vùng này bao giờ, theo tính toán thì vùng sương gần nhất cách đó hai mươi tư ngàn hải lý, xa xa phía Bắc. Thuyền phó cảm thấy vô lý nhưng nghĩ rằng thiên nhiên có nhiều cái kì lạ mà loài người hãy chưa biết hết được, nên anh ta đặt chuyện quan trọng hơn hết là xác định họ đang ở đâu trên biển. Nhưng điều này khi hỏi lại không ai trả lời được.
Thực vô lý và bất thường, thủy thủ đoàn thức trắng đêm với một miếng vải che cánh mũi giữa đêm lạnh thấu xương, nói ra tất cả những gì họ biết về vị trí hiện tại của con tàu, mấy ngày qua họ đã đi nơi nào, dừng ở đâu săn bắt ở đâu. Kì lạ thay chẳng ai nhớ chính xác được kể từ bốn năm ngày trước, nói rằng mình không nhận ra vùng biển nơi họ săn bắt hải cẩu mấy ngày đó, vì nó cũng như mọi lần nên chẳng ai để ý.
Xác con cá mập treo trên cột buồm thối rữa dần, mùi hôi thối lan ra và ngưng đọng trong không khí, lây vào từng thớ vải trên quần áo thủy thủ, nhập vào mùi gỗ cùng các ngóc ngách của con tàu. Ít lâu sau cái xác bị gỡ xuống quăng ra biển nhưng nó không chìm đi, bướng bỉnh nổi trên mặt nước như thể dưới đó là băng chứ không phải chất lỏng, mùi của nó lan ra cả một vùng, dù con tàu đi đến đâu trong dãy sương mù thì mùi ấy vẫn dai dẳng trên cánh mũi từng người.
Họ cứ đi mãi đi mãi trong màn sương và đến ngày thứ bảy thì không còn thấy mặt trời. Có lẽ ông thuyền trưởng sẽ biết nơi này là đâu. Nhưng ông ấy không còn ở trên tàu, biến mất không còn tăm hơi sau khi mở khóa cửa phòng nhảy xuống biển lúc đoàn người ồn ã trên boong tàu. Những gì còn lại từ ông chỉ có mấy xấp lược đồ người ta không tài nào đọc được và chiếc chìa khóa còn cắm nguyên trên ổ khóa cửa phòng.
Còn chiếc thuyền cùng thủy thủ đoàn kẹt lại trong màn sương mù, đi quanh đi quanh cho đến mãi mãi. Họ không biết rằng sự lạc lối đã bắt đầu từ trước cả thời gian.
Đánh dấu